Ngành thủy sản hướng tới sản phẩm chế biến sâu, gia tăng giá trị xuất khẩu

author 07:33 30/09/2025

(VietQ.vn) - Đẩy mạnh chế biến sâu, phát triển sản phẩm giá trị gia tăng đang trở thành hướng đi tất yếu của ngành thủy sản Việt Nam. Bước chuyển này không chỉ góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế mà còn giúp doanh nghiệp thích ứng tốt hơn trước biến động của thị trường quốc tế.

 Sản phẩm giá trị gia tăng là hướng đi bền vững cho ngành thủy sản Việt Nam. (Ảnh minh họa)

Nhiều thách thức đối với ngành thủy sản

Bà Tô Thị Tường Lan, Phó Tổng Thư ký Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP) cho biết, xuất khẩu thủy sản trong 8 tháng năm 2025 đạt 7,3 tỉ USD, tăng 17% so với cùng kỳ năm ngoái. “Con số này thể hiện nỗ lực rất lớn của doanh nghiệp cũng như sự đồng hành từ phía Chính phủ. Với đà hiện nay, chúng tôi dự kiến cả năm ngành thủy sản sẽ về đích 10 tỉ USD, tăng khoảng 10% so với năm trước”, bà Tường Lan nói.

Năm nay có một thay đổi đáng chú ý, xuất khẩu sang Mỹ đã rơi xuống vị trí số 2, nhường chỗ cho Trung Quốc. Riêng với thị trường Mỹ, ngoài việc chịu các mức thuế đối ứng như nhiều ngành khác, ngành thủy sản còn gặp thêm rào cản từ quy định mới đối với hải sản khai thác.

Theo đó, từ ngày 1/1/2026, các mặt hàng chủ lực như ghẹ, cá ngừ, cá thu sẽ không thể xuất khẩu sang Mỹ. Bên cạnh đó, thuế chống bán phá giá với tôm hiện đã vượt mức 55%, khiến nguy cơ mất thị trường này là rất rõ ràng.

Thị trường châu Âu thì tiếp tục là gánh nặng với “thẻ vàng” đã kéo dài suốt 8 năm qua và đến nay vẫn chưa biết bao giờ mới có thể gỡ bỏ. Ngược lại, một tín hiệu tích cực đến từ những thị trường ngách như Nam Mỹ, Trung Đông hay châu Á. Đây là những thị trường giàu tiềm năng nhưng vẫn chưa được đầu tư đúng mức.

“Điểm sáng” từ sản phẩm giá trị gia tăng

Một điểm sáng của ngành chính là sự gia tăng mạnh mẽ của sản phẩm giá trị gia tăng (GTGT). Việt Nam hiện đứng thứ ba toàn cầu về sản xuất hàng thủy sản GTGT và định hướng rõ ràng là trở thành công xưởng chế biến các sản phẩm này cho thế giới. Đây là hướng đi giúp tăng lợi nhuận, đồng thời tránh phải cạnh tranh trực diện về giá với những đối thủ lớn.

Bên cạnh đó, phát triển bền vững đã không còn là khẩu hiệu mà trở thành yêu cầu cụ thể đối với từng ngành hàng. Ví dụ từ châu Âu, bà Lan cho biết, họ đã ban hành quy định về carbon thông minh, đồng thời yêu cầu trong nuôi thủy sản phải có đầy đủ toa thuốc thú y. Doanh nghiệp Việt Nam phải chủ động thích ứng, không thể chờ đến lúc bị động đối phó.

Hiện các doanh nghiệp ngành thủy sản đang nỗ lực đẩy mạnh triển khai số hóa, minh bạch hóa chuỗi cung ứng, khai thác, cập cảng, thu mua, chế biến, xuất khẩu như một công cụ quan trọng để thu hẹp khoảng cách với các yêu cầu quốc tế. Cùng với đó là ưu tiên đầu tư hạ tầng cảng cá hợp pháp, mở rộng lượng cảng được công nhận để bảo đảm các tàu cá có nơi cập bến hợp pháp, giấy tờ đầy đủ xuất khẩu.

Đối với thị trường nội địa, với quy mô 100 triệu dân, sự phát triển mạnh của ngành ăn uống (F&B), chi tiêu ngày càng cao và thói quen tiêu dùng của giới trẻ đang thay đổi, đây là mảnh đất đầy tiềm năng. Tuy nhiên, khai thác thị trường nội địa lại không dễ dàng. Người tiêu dùng vẫn còn nhạy cảm về giá, ý thức an toàn thực phẩm chưa cao, trong khi mạng lưới phân phối nội địa rất khác với xuất khẩu. Dù vậy, các doanh nghiệp thủy sản vẫn kiên trì.

Đặc biệt, điểm sáng tại TP.Hồ Chí Minh dù không phải vùng nguyên liệu nhưng các doanh nghiệp thủy sản ở đây đã tích cực đầu tư vào thị trường trong nước và đang từng bước gia tăng thị phần nhằm hỗ trợ cho xuất khẩu.

Các chuyên gia cũng cho rằng, về dài hạn, ngành thủy sản cần tranh thủ mạng lưới các FTA mà Việt Nam ký kết và triển khai với hơn 60 quốc gia và nền kinh tế để mở rộng thị trường, đồng thời nâng cấp hạ tầng, đầu tư vào truy xuất nguồn gốc, giảm chi phí logistics, tăng khả năng đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế. Các cơ quan chức năng cũng cần có chính sách tín dụng, hỗ trợ vùng nuôi và đầu tư chế biến để tăng năng lực cạnh tranh toàn ngành.

Thanh Tùng

Thích và chia sẻ bài viết:

tin liên quan

video hot

Về đầu trang