Phát hiện 14 dược chất ngụy tạo không tốt cho sức khỏe trong sản phẩm dược liệu
(VietQ.vn) - Các nhà khoa học đã tiến hành sàng lọc các dược chất giảm đau, chống viêm trong các sản phẩm thuốc đông y có nguy cơ ngụy tạo - cho vào bài thuốc từ nguồn khác, không phải dược liệu.
Nguy cơ từ sản phẩm 'giảm cân cấp tốc' bùng nổ trên mạng xã hội
Doanh nghiệp mất 20 năm gây dựng thương hiệu, nhưng có thể mất trắng trong 20 ngày
Tối ưu hóa công cụ phòng vệ thương mại để bảo vệ sản xuất nội địa và thúc đẩy hội nhập
Việc phát hiện đồng loạt 14 dược chất có tác dụng giảm đau và kháng viêm tổng hợp trong các sản phẩm dược liệu đã làm dấy lên cảnh báo về nguy cơ ngụy tạo và trà trộn tân dược trong nhiều chế phẩm “tự nhiên”. Các chất này, vốn phổ biến và có giá thành thấp, nếu không kiểm soát sẽ tiềm ẩn nguy cơ gây hại nghiêm trọng cho người tiêu dùng.
Một nhóm các nhà khoa học tại Trung tâm Kiểm nghiệm Thuốc, Mỹ phẩm, Thực phẩm TP.HCM (thuộc Sở KH&CN TP.HCM) đã xây dựng thành công quy trình phân tích nhằm phát hiện 14 loại dược chất tổng hợp thường dùng để giảm đau, kháng viêm ngụy tạo trong các chế phẩm từ dược liệu. Phương pháp này được triển khai với hai nền tảng kỹ thuật hiện đại: đầu tiên là HPLC-UV/Vis để định lượng sơ bộ, sau đó là LC-MS/MS để khẳng định chính xác các thành phần có mặt trong mẫu thử.
Các dược chất được xác định bao gồm betamethason, dexamethason base, methylprednisolon, triamcinolon, prednison, aceclofenac, dexamethason acetat, diclofenac, ibuprofen, ketoprofen, meloxicam, acid mefenamic, piroxicam và paracetamol. Tất cả đều là những hoạt chất kháng viêm, giảm đau phổ biến, dễ mua và có giá thành rẻ.
Các nhà khoa học đã tìm ra phương pháp sàng lọc 14 dược chất ngụy tạo trong dược liệu
Qua việc ứng dụng quy trình này trên 385 mẫu chế phẩm từ dược liệu tại TP.HCM, nhóm nghiên cứu phát hiện đến 106 mẫu (tương đương 27,53%) chứa các dược chất tổng hợp. Mức độ lẫn tạp không bị kiểm soát, có mẫu chứa hàm lượng cao gấp đến 600 lần so với liều dùng khuyến cáo, và có trường hợp phối hợp từ 2-4 loại dược chất cùng lúc.
Đặc biệt, phát hiện được tình trạng cùng 1 loại sản phẩm (cùng tên, cùng nhà sản xuất) nhưng thu mua ở những nơi khác nhau lại có tình trạng lúc thì có ngụy tạo, lúc thì không có ngụy tạo, đây có thể là tình huống “hàng giả của giả” (tức là hàng giả không được ngụy tạo như sản phẩm chính thức) hoặc do khả năng sản xuất kém nên chất lượng các lô không ổn định, dẫn đến tình trạng ngụy tạo không đồng đều.
Mặt khác, hai dược chất là betamethason và dexamethason có liều dùng cực kỳ thấp, tác dụng phụ cực kỳ nguy hiểm khi sử dụng lâu dài nhưng lại được trộn trái phép một cách vô tội vạ. Hậu quả của việc bệnh nhân sử dụng những chế phẩm này có thể rất nghiêm trọng.
Thành tựu này không chỉ vừa là nỗ lực đầu tiên được công bố tại Việt Nam, mà còn cung cấp một tài liệu tham khảo quý giá cho các trung tâm kiểm nghiệm trong tương lai. Quy trình phân tích mới này được đánh giá là nhanh chóng, chính xác, chi phí hợp lý và phù hợp để dùng đa mục tiêu nhằm giám sát chất lượng các chế phẩm từ dược liệu, đặc biệt những sản phẩm hỗ trợ điều trị cơ xương khớp.
Kết quả nghiên cứu đã góp phần tăng cường khả năng kiểm soát, giám sát và phòng ngừa các hành vi vi phạm trong sản xuất kinh doanh dược liệu. Đồng thời, nó cũng là một lời cảnh tỉnh mạnh mẽ đến người tiêu dùng: cần cân nhắc kỹ và lựa chọn sản phẩm có nguồn gốc rõ ràng, có kiểm nghiệm, đặc biệt khi dùng cho mục đích hỗ trợ trị liệu.
Bảo Linh (t/h)









