Sản xuất giảm phát thải lĩnh vực trồng trọt- tiên phong bảo vệ môi trường, hướng đến nền nông nghiệp xanh
(VietQ.vn) - Đề án “Sản xuất giảm phát thải lĩnh vực trồng trọt giai đoạn 2025-2035 tầm nhìn đến 2050” là minh chứng, nông nghiệp Việt Nam không chỉ là trụ đỡ kinh tế mà còn là ngành tiên phong trong bảo vệ môi trường và hướng đến nền sản xuất xanh; mở ra con đường mới cho ngành trồng trọt phát thải thấp, góp phần hiện thực hóa mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050.
Ngày 22/10/2025, tại Hà Nội, Bộ Nông nghiệp và Môi trường (NN&MT) tổ chức Hội nghị công bố Đề án và tham vấn cho dự thảo kế hoạch hành động triển khai Đề án “Sản xuất giảm phát thải lĩnh vực trồng trọt giai đoạn 2025-2035, tầm nhìn đến 2050”.
Bước đi chiến lược, tư duy đổi mới trong thời kỳ chuyển đổi xanh và hội nhập quốc tế
Phát biểu tại Hội nghị, Thứ trưởng Bộ NN&MT Hoàng Trung cho biết, Đề án “Sản xuất giảm phát thải lĩnh vực trồng trọt giai đoạn 2025–2035, tầm nhìn đến 2050” là một bước đi chiến lược, thể hiện tư duy đổi mới và quyết tâm của ngành Nông nghiệp và Môi trường Việt Nam trong thời kỳ chuyển đổi xanh và hội nhập quốc tế sâu rộng.

Thứ trưởng Bộ NN&MT Hoàng Trung: Đề án sẽ mở ra con đường mới cho ngành trồng trọt. Ảnh: Báo Nông nghiệp & Môi trường
Đề án không chỉ đơn giản là một nhiệm vụ chuyên môn thuần tuý mà còn là cam kết của Việt Nam về một nền nông nghiệp minh bạch, trách nhiệm; góp phần đáng kể vào việc thực hiện cam kết chính trị quan trọng về Đóng góp quốc gia tự quyết định (NDC) và mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050, như Chính phủ đã công bố tại COP26.
Việc sản xuất nông sản theo hướng giảm phát thải, có truy xuất nguồn gốc carbon, chứng nhận môi trường sẽ giúp tiếp cận các thị trường có giá trị cao như: EU, Nhật Bản, Bắc Mỹ... với giá bán tăng từ 10 - 25% so với sản phẩm thông thường. Ngoài ra, nếu triển khai hiệu quả các giải pháp tổng thể từ Đề án có thể giúp giảm được 8-11 triệu tấn CO₂ tương đương/năm, đóng góp cho NDC. Đồng thời giúp cải thiện độ phì đất, hạn chế suy thoái tài nguyên, giảm ô nhiễm môi trường do đốt phế phụ phẩm; tăng thu nhập và ổn định sinh kế cho nông dân, tạo việc làm cho phụ nữ và người trẻ, góp phần giữ chân lao động nông thôn.
Kết quả kiểm kê khí nhà kính quốc gia của ngành nông nghiệp cho thấy, lĩnh vực trồng trọt chiếm gần 80% tổng phát thải khí nhà kính của toàn ngành, trong đó sản xuất lúa nước là nguồn phát thải chính. Do đó, việc cơ cấu lại sản xuất theo hướng bền vững, giảm phát thải- tăng hiệu quả- giảm chi phí sản xuất không chỉ là yêu cầu tất yếu, mà còn là cơ hội để nâng cao năng lực cạnh tranh và khẳng định thương hiệu nông sản Việt Nam trên thị trường quốc tế.
“Đề án là lời khẳng định rằng, nông nghiệp Việt Nam không chỉ là trụ đỡ kinh tế mà còn là ngành tiên phong trong bảo vệ môi trường và hướng đến nền sản xuất xanh. Đề án sẽ mở ra con đường mới cho ngành trồng trọt- một nền nông nghiệp phát thải thấp, hiện đại và có khả năng hội nhập sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu, góp phần quan trọng để hiện thực hóa mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050”- Thứ trưởng Hoàng Trung nhấn mạnh.
Theo ông Huỳnh Tấn Đạt- Cục trưởng Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật, mục tiêu của Đề án là triển khai đồng bộ các giải pháp nhằm thúc đẩy chuyển đổi hệ thống sản xuất trồng trọt theo hướng phát thải thấp, thích ứng với biến đổi khí hậu, nâng cao thu nhập, cải thiện sinh kế cho người dân và phát triển bền vững.
“Ngành trồng trọt đặt mục tiêu đến năm 2035 sẽ góp phần giảm ít nhất 15% lượng phát thải khí nhà kính so với năm cơ sở 2020”- Cục trưởng Huỳnh Tấn Đạt khẳng định.

Ông Huỳnh Tấn Đạt- Cục trưởng Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật: Đề án nhằm thúc đẩy chuyển đổi hệ thống sản xuất trồng trọt theo hướng phát thải thấp
Tại địa phương, mỗi tỉnh, thành sẽ triển khai ít nhất 1-2 mô hình sản xuất trồng trọt giảm phát thải có thể nhân rộng, thí điểm tối thiểu 15 mô hình canh tác đủ điều kiện phát triển tín chỉ carbon. Hệ thống dữ liệu phát thải sẽ được đồng bộ với Hệ thống đăng ký quốc gia.
Ngành sẽ đào tạo tối thiểu 3.000 cán bộ kỹ thuật, khuyến nông, nông dân và doanh nghiệp; xây dựng ít nhất 5 bộ tài liệu truyền thông nhằm nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi sản xuất theo hướng phát thải thấp- ông Huỳnh Tấn Đạt cho hay.
Tháo gỡ đồng bộ các điểm nghẽn
Theo Thứ trưởng Hoàng Trung, sản xuất trồng trọt giảm phát thải hiện đang đối mặt với nhiều điểm nghẽn cần được tháo gỡ đồng bộ. Trước hết, các sáng kiến, giải pháp sản xuất giảm phát thải còn rời rạc, thiếu cơ chế khuyến khích mạnh mẽ để huy động người dân, hợp tác xã và doanh nghiệp tham gia. Hệ thống tiêu chuẩn kỹ thuật, quy trình canh tác và quy trình MRV (đo lường-báo cáo và xác minh) cho các cây trồng ngoài lúa còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu minh bạch và tương thích quốc tế, gây khó khăn cho việc tham gia thị trường tín chỉ các-bon.
Bên cạnh đó, năng lực kỹ thuật, tổ chức sản xuất và nhận thức tại cơ sở vẫn còn chênh lệch, chưa đủ điều kiện nhân rộng mô hình gắn với chuỗi giá trị. Những thách thức này đòi hỏi một tư duy mới, cách tiếp cận tích hợp và sự phối hợp thực chất giữa các cấp, các ngành và các đối tác trong và ngoài nước.
Tại Hội nghị, nhiều ý kiến từ các địa phương, các hiệp hội, tổ chức quốc tế đã chia sẻ kinh nghiệm và tham vấn cho dự thảo Kế hoạch hành động triển khai Đề án.

Phiên thảo luận tại Hội nghị.
Chia sẻ tại điểm cầu tỉnh Đồng Tháp, ông Lê Chí Thiện- Phó Giám đốc Sở NN&MT Đồng Tháp- cho biết, Đồng Tháp đã tiên phong triển khai 21 mô hình sản xuất lúa chất lượng cao giảm phát thải, giúp giảm 20-30% lượng nước tưới, tiết kiệm 15% chi phí và cắt giảm đáng kể lượng khí metan phát thải ra môi trường.
Người dân và hợp tác xã trong tỉnh còn tận dụng vỏ trấu sản xuất biogas, dùng phụ phẩm làm phân hữu cơ, hướng tới nền nông nghiệp tuần hoàn, hiệu quả. Đặc biệt, tỉnh đã phối hợp với các tổ chức quốc tế phát triển mô hình lúa sinh thái và chuyển đổi các diện tích kém hiệu quả sang mô hình sản xuất giảm phát thải.
Tuy nhiên, theo ông Thiện, việc sản xuất giảm phát thải tại địa phương vẫn gặp không ít thách thức như thiếu nguồn lực đầu tư, cơ chế khuyến khích doanh nghiệp, chính sách tín dụng xanh hay hướng dẫn kỹ thuật cụ thể cho từng nhóm cây trồng.
Đối với tỉnh Tây Ninh- địa phương có diện tích trồng sắn lớn nhất cả nước, với khoảng 60.000 ha và sản lượng đạt trên 2 triệu tấn mỗi năm, việc giảm phát thải trong sản xuất cây sắn là nhiệm vụ cấp thiết.
Bà Đinh Thị Phương Khanh - Phó Giám đốc Sở NN&MT Tây Ninh đề xuất, để các địa phương sớm triển khai có hiệu quả các nhiệm vụ được giao trong khuôn khổ Đề án, Bộ NN&MT cần sớm xây dựng bộ tiêu chí chuyển đổi cây trồng. Trong đó, xác định rõ mức độ giảm phát thải của từng loại cây trồng sau khi chuyển đổi, tạo căn cứ khoa học và thực tiễn để lựa chọn loại cây phù hợp với điều kiện canh tác và yêu cầu giảm phát thải.
Nhấn mạnh cần nguồn vốn khởi động đủ mạnh, PGS. TS Nguyễn Trí Ngọc- Phó Chủ tịch Tổng hội NN&PTNT Việt Nam- cho rằng, đề án trồng trọt giảm phát thải đã đi đúng hướng phát triển được khuyến khích, đó là phát triển xanh, hữu cơ, bền vững và có định hướng thị trường rõ ràng.
Tuy nhiên, theo ông Ngọc, điểm cần làm rõ hơn là nguồn lực thực hiện đề án, bởi hiện nay mới chủ yếu dựa vào xã hội hóa, dù đây là hướng đi lớn và lâu dài, nhưng nếu không có khung chính sách và nguồn vốn khởi động đủ mạnh, quá trình triển khai sẽ khó đạt hiệu quả như kỳ vọng.
Khẳng định, Đề án là minh chứng cho xu hướng chuyển đổi số song hành với chuyển đổi xanh trong nông nghiệp Việt Nam, ông Nguyễn Song Hà- Trợ lý Trưởng Đại diện FAO tại Việt Nam, chia sẻ, thời gian qua, FAO đã phối hợp với các cơ quan tại Việt Nam cải thiện quy trình canh tác cho các mô hình trồng lúa, xoài, dừa…, đồng thời xây dựng thương hiệu cho các sản phẩm chủ lực quốc gia và thúc đẩy mô hình kinh tế tuần hoàn, kinh tế vườn.

Đề án là minh chứng cho xu hướng chuyển đổi số song hành với chuyển đổi xanh trong nông nghiệp Việt Nam
Để đạt được mục tiêu giảm phát thải, ông Đặng Văn Bảo- Chủ tịch Hiệp hội CropLife Việt Nam, đề xuất nhóm giải pháp công nghệ trọng tâm. Đó là, các giải pháp và công cụ bảo vệ thực vật tiên tiến, bao gồm thuốc BVTV sinh học; thiết bị drone phun chính xác và phương thức quản lý dịch hại tổng hợp (IPM). Những công nghệ này giúp giảm lượng hóa chất và nhiên liệu sử dụng, tối ưu hóa năng suất, đồng thời giảm phát thải CO₂ trong quá trình canh tác.
Cùng với đó, cây trồng công nghệ sinh học- đặc biệt là các giống cây biến đổi gen đã được canh tác tại Việt Nam- đã cho thấy hiệu quả rõ rệt trong việc giảm lượng nguyên liệu canh tác đầu vào như thuốc bảo vệ thực vật, phân bón, công lao động; hạn chế năng lượng tiêu hao, qua đó khuyến khích canh tác không cày xới (no-till), giúp hạn chế phát thải khí nhà kính và tăng hấp thu các-bon trong đất.
Theo ông Bảo, cây trồng chỉnh sửa gen- dù hiện chưa được thương mại hóa do đang trong quá trình hoàn thiện khung pháp lý, nhưng là hướng đi đầy tiềm năng. Công nghệ này cho phép tạo ra những giống cây trồng có khả năng thích nghi cao với biến đổi khí hậu, chịu hạn, kháng sâu bệnh, giúp giảm nhu cầu đầu vào và nâng cao hiệu quả hấp thu carbon sinh học.
Các ý kiến phát biểu và thảo luận tại Hội nghị đã mang đến những góc nhìn đa chiều, toàn diện và sâu sắc về tầm nhìn chiến lược cũng như các giải pháp kỹ thuật, nhiệm vụ trọng tâm trong quá trình chuyển đổi hệ thống sản xuất trồng trọt theo hướng giảm phát thải.
Thông qua việc triển khai đề án, một hướng tiếp cận mới sẽ được mở ra, đó là coi giảm phát thải là động lực nâng cao chất lượng, giá trị, thu nhập và khả năng cạnh tranh của nông sản Việt Nam. Khi được triển khai đồng bộ, Đề án sẽ không chỉ góp phần bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu, mà còn định vị lại hình ảnh nền nông nghiệp Việt Nam hiện đại, sinh thái và có trách nhiệm với khí hậu toàn cầu”- Thứ trưởng Hoàng Trung nói và khẳng định: kết quả của hội nghị sẽ là cơ sở quan trọng để hoàn thiện và sớm ban hành kế hoạch, đưa Đề án vào thực tế.
Lê Kim Liên









