Thị trường Halal - cơ hội cho Việt Nam phát triển ngành công nghiệp Halal

author 06:31 21/12/2023

(VietQ.vn) - Việc nắm vững thông tin về các quy định, tiêu chuẩn của thị trường Halal là chìa khoá quan trọng để thúc đẩy việc đưa hàng hoá của Việt Nam gia nhập thị trường này ngày càng thuận lợi.

Thị trường Halal (cách gọi về thị trường khu vực Hồi giáo) được đánh giá là tiềm năng và là cơ hội cho Việt Nam trong việc phát triển ngành công nghiệp phục vụ thị trường này (công nghiệp Halal). Chia sẻ về những động lực tăng trưởng chính của thị trường này, PGS.TS Đinh Công Hoàng, Viện Nghiên cứu châu Phi và Trung Đông (IAMES) nhấn mạnh, quy mô thị trường Halal khá lớn, đạt 2.200 tỷ USD năm 2020 và dự kiến đạt 3.200 tỷ USD năm 2025. Thị trường tiềm năng với tốc độ tăng trưởng hàng năm 6,2%.

Ngoài ra, GDP bình quân đầu người Hồi giáo tăng 4,2% đến năm 2024; dân số Hồi giáo lớn và đang phát triển, đạt 2 tỷ người vào năm 2023; dự kiến đạt 2,3 tỷ người vào năm 2030; chiếm 1/3 dân số thế giới.

Dự báo mức tăng của từng khu vực cụ thể như sau: Khu vực Bắc Mỹ dự kiến tăng 50%, đạt 300 triệu USD năm 2030; khu vực châu Âu và lục địa Á - Âu dự kiến tăng 67%, đạt 500 triệu USD năm 2030; khu vực châu Á Thái Bình Dương dự kiến tăng 75%, đạt 2.800 triệu USD năm 2030.

Khu vực Trung Đông và Bắc Phi: dự kiến tăng 50%, đạt 1200 triệu USD năm 2030. Khu vực Tiểu sa mạc Sahara - Châu Phi dự kiến tăng 100%, đạt 400 triệu USD năm 2030.

 
PGS.TS Đinh Công Hoàng, Viện Nghiên cứu châu Phi và Trung Đông (IAMES) trình bày tham luận tại Hội thảo.

So với các nước trong khu vực, Việt Nam có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển sản phẩm cho thị trường Halal với vị trí địa lý thuận lợi, có nhiều thế mạnh về nông nghiệp, thực phẩm, du lịch, dịch vụ…; Bên cạnh đó, Việt Nam là thị trường rộng lớn và hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, toàn diện khi tham gia nhiều liên kết kinh tế hàng đầu khu vực, trong đó có các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới.

Có thể nói, Việt Nam hiện là mắt xích quan trọng trong nhiều liên kết kinh tế hàng đầu khu vực và liên khu vực: Hiệp định Thương mại Tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EVFTA), Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Đối tác Kinh tế toàn diện khu vực (RCEP)... Đây là cơ sở quan trọng giúp doanh nghiệp tiếp cận thị trường, kể cả các thị trường khó tính, tiêu chuẩn cao như EU, thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm của Việt Nam, trong đó có sản phẩm Halal.

Đặc biệt, Chính phủ Việt Nam quan tâm tới việc khai mở và hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam tham gia hiệu quả vào thị trường Halal toàn cầu.

Tuy nhiên, doanh nghiệp Việt Nam gặp phải một số khó khăn nhất định đối với sản xuất và xuất khẩu sản phẩm Halal. Bên cạnh chi phí đầu tư dây chuyền sản xuất, trang thiết bị để sản xuất sản phẩm Halal, doanh nghiệp còn gặp khó khăn trong việc tìm hiểu thông tin về văn hóa thị trường Halal, tiêu chuẩn Halal, quy trình chứng nhận Halal và đặc biệt là việc đạt chứng nhận Halal đa dạng, phù hợp với yêu cầu riêng của từng thị trường.

Với mục tiêu hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận thông tin chính xác về yêu cầu của tiêu chuẩn Halal của các thị trường cũng như yêu cầu về chứng nhận Halal, trong thời gian trước mắt, Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng sẽ thành lập Trung tâm chứng nhận Halal quốc gia.

Cũng theo PGS.TS. Đinh Công Hoàng, bên cạnh việc triển khai hiệu quả Đề án quốc gia “Tăng cường hợp tác quốc tế để xây dựng và phát triển ngành Halal Việt Nam đến năm 2030” (Quyết định số 10/QĐ-TTg ngày 14/2/2023), cần nâng cao nhận thức của người dân, doanh nghiệp, chính phủ, địa phương tại Việt Nam về tiềm năng của thị trường Halal.

Đồng thời, đẩy mạnh “Ngoại giao kinh tế” với các nước Hồi giáo, nghiên cứu ký kết FTA giữa Việt Nam và các thị trường Halal tiềm năng (CEPT với UAE…), tận dụng lợi thế từ các hiệp định khu vực (AfCFTA, OIC, GCC…).

Thành lập cơ quan quản lý Halal tại Việt Nam và triển khai các hoạt động tiêu chuẩn hoá, thử nghiệm, cấp chứng nhận Halal cho doanh nghiệp và chuyên gia, kí kết các hiệp định công nhận tiêu chuẩn lẫn nhau với các quốc gia Hồi giáo (OIC, Ả Rập Xê Út, Malaysia, Indonesia, Pakistan…).

Mặt khác, thiết lập hệ sinh thái Halal (sản xuất, dịch vụ, hạ tầng chất lượng quốc gia, nguồn nhân lực, tài chính..), thu hút cả FDI và đầu tư Halal trong nước, thúc đẩy phát triển ngành Halal trong các lĩnh vực ưu tiên (thực phẩm, nông sản, du lịch, may mặc…). Thúc đẩy chuyển đổi số và thương mại điện tử để xuất khẩu sang thị trường Halal.

Hà My

Thích và chia sẻ bài viết:

tin liên quan

video hot

Về đầu trang