Chiến lược năng suất quốc gia: Bước chuyển từ mục tiêu sang hành động

author 17:35 05/12/2025

(VietQ.vn) - Quyết định 36/QĐ-TTg đang giúp Việt Nam chuyển đổi mạnh mẽ cách tiếp cận nâng cao năng suất, gắn khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo vào từng nhiệm vụ, hướng tới hệ thống hỗ trợ năng suất hiện đại và hiệu quả hơn

Báo cáo triển khai Quyết định 36/QĐ-TTg về kế hoạch tổng thể nâng cao năng suất dựa trên nền tảng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo tại Hội thảo sơ kết 5 năm giai đoạn 2021-2025 triển khai chương trình quốc gia hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, hàng hóa giai đoạn 2021-2030 vừa diễn ra, ông Nguyễn Tùng Lâm – Viện trưởng Viện Năng suất Việt Nam, Uỷ ban TCĐLCL Quốc gia cho biết, trong bối cảnh Việt Nam chịu áp lực đổi mới mô hình tăng trưởng khi việc tiếp tục dựa vào tăng vốn đầu tư, lao động và khai thác tài nguyên không còn bền vững do dân số già hóa, chi phí lao động tăng và giới hạn vốn.

Bên cạnh đó, năng suất lao động của Việt Nam vẫn còn khoảng cách lớn so với khu vực, đòi hỏi cải cách mạnh mẽ; TFP trở thành yêu cầu trung tâm trong chiến lược quốc gia theo Nghị quyết 05-NQ/TW và Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn 2021–2030. Ngoài ra, bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 và chuyển đổi số với sự xuất hiện của các công nghệ như AI, IoT, dữ liệu lớn, tự động hóa đang làm thay đổi sản xuất, quản trị và mô hình kinh doanh, trong khi hệ thống hỗ trợ năng suất quốc gia như bộ chỉ tiêu, cơ sở dữ liệu và lực lượng chuyên gia vẫn chưa hoàn thiện.

 Ông Nguyễn Tùng Lâm – Viện trưởng Viện Năng suất Việt Nam, Uỷ ban TCĐLCL Quốc gia.

Trước yêu cầu đó, theo ông Lâm, Quyết định 36/QĐ-TTg có ý nghĩa định vị năng suất là động lực chiến lược mới cho tăng trưởng, tạo khung chính sách đồng bộ ở cấp quốc gia, gắn kết năng suất với khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, thúc đẩy áp dụng các hệ thống quản lý tiên tiến như ISO, LEAN, TPM, ESG và hình thành hạ tầng năng suất quốc gia gồm bộ chỉ tiêu đo lường, cơ sở dữ liệu năng suất, mạng lưới tổ chức hỗ trợ và đội ngũ chuyên gia chuẩn hóa. Quyết định 36/QĐ-TTg cũng thúc đẩy sự chủ động của địa phương trong xây dựng kế hoạch nâng cao năng suất, lồng ghép chỉ tiêu năng suất – TFP vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời tạo cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi số và đổi mới công nghệ.

Việc tổ chức thực hiện kế hoạch được Bộ Khoa học và Công nghệ triển khai thông qua Quyết định 1851/QĐ-BKHCN ngày 12/7/2021, hướng dẫn địa phương xây dựng kế hoạch, tổ chức hội thảo, tập huấn, phổ biến tài liệu và làm việc với các tập đoàn, tổng công ty. Các hoạt động nổi bật bao gồm hoàn thiện cơ chế chính sách, thành lập Văn phòng Chứng nhận Chuyên gia Năng suất (ViProCB) được APO công nhận, vận hành chương trình chứng nhận theo tiêu chuẩn APO-PS 101, ban hành TCVN 13751:2023 về yêu cầu đối với chuyên gia năng suất và phát triển 4 chương trình cùng 4 tài liệu đào tạo chuyên gia năng suất ở 4 lĩnh vực với 3 cấp độ (chuyên gia, chuyên gia trưởng, chuyên gia cao cấp).

Công tác nghiên cứu, tư vấn và đào tạo được đẩy mạnh với việc nghiên cứu các hệ thống quản lý, mô hình cải tiến mới như TPI, ISO 56000, ISO 14064, ESG, các giải pháp năng suất xanh, chuyển đổi số trong quản lý sản xuất và ứng dụng AI; tổ chức 20 khóa đào tạo cho 300 chuyên gia; cấp chứng chỉ cho 29 lượt theo chuẩn APO và 56 lượt theo TCVN 13751:2023; hoàn thành dự án nâng cao năng lực Viện Năng suất Việt Nam do APO hỗ trợ và đưa học phần năng suất – chất lượng vào chương trình đào tạo đại học.

Các hoạt động áp dụng hệ thống quản lý trong doanh nghiệp được triển khai ở 21 địa phương (trực tiếp) và 8 địa phương (gián tiếp) thông qua tính toán TFP, xây dựng kế hoạch năng suất cho EVN, Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng, Tập đoàn Hóa chất, Tập đoàn Dầu khí; phát triển bộ công cụ ViPA với 500 doanh nghiệp tham gia và tư vấn cải tiến cho hàng trăm doanh nghiệp.

Công tác truyền thông được tăng cường qua báo cáo năng suất hằng năm, diễn đàn năng suất, hội thảo quốc tế, xuất bản tài liệu, cuộc thi sinh viên; hợp tác quốc tế mở rộng với Tổ chức Năng suất châu Á (APO) trong các dự án nghiên cứu, xây dựng trung tâm xuất sắc, thực hành quy định tốt GRP và với Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) trong đào tạo chuyên gia năng suất xanh.

Tuy nhiên, chương trình còn nhiều hạn chế như chưa hoàn thành bộ chỉ tiêu năng suất và cơ sở dữ liệu năng suất quốc gia; nghiên cứu giải pháp mới còn hạn chế, thiếu nguồn lực tài chính và nhân lực; cơ chế phối hợp chưa mạnh; dữ liệu thống kê chưa đồng bộ; doanh nghiệp gặp khó khăn nên ít ưu tiên cải tiến năng suất; đội ngũ chuyên gia còn mỏng và cần cập nhật kiến thức mới; năng lực tổ chức hỗ trợ năng suất tại địa phương còn hạn chế.

Hoạt động nghiên cứu, tư vấn, đào tạo và các tổ chức hỗ trợ hoạt động năng suất.

Về bài học kinh nghiệm, ông Lâm cho hay, chỉ đạo thống nhất từ trung ương là yếu tố quyết định; cơ chế phối hợp liên tục giữa Bộ Khoa học và Công nghệ, Uỷ ban Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng Quốc gia và địa phương; chuyên gia chuyên sâu hỗ trợ kịp thời; chính sách phải gắn với nguồn lực thực thi; dữ liệu đầy đủ, tăng cường năng lực triển khai và đẩy mạnh truyền thông để nhân rộng mô hình hiệu quả.

Định hướng giai đoạn 2026–2030, ông Lâm bày tỏ, cần tập trung xây dựng hạ tầng năng suất quốc gia, hoàn thiện bộ chỉ tiêu, cơ sở dữ liệu và mạng lưới tổ chức; nghiên cứu và hướng dẫn giải pháp mới như năng suất xanh, ESG, ISO 56000, AI, số hóa, tự động hóa; phát triển lực lượng chuyên gia đạt chuẩn; hình thành 20 câu lạc bộ năng suất tại các trường đại học, 34 tỉnh/thành xây dựng kế hoạch nâng cao năng suất, huy động 5–7 tập đoàn/tổng công ty tham gia và khuyến khích tối thiểu 500 doanh nghiệp nhỏ và vừa triển khai dự án điểm; đồng thời nhân rộng công cụ LEAN, TPI, số hóa, tự động hóa; xây dựng điển hình cải tiến; đẩy mạnh truyền thông, hợp tác quốc tế, diễn đàn năng suất và báo cáo định kỳ.

Tiểu My

Thích và chia sẻ bài viết:

tin liên quan

video hot

Về đầu trang