Chuẩn hóa quản lý và hành động mạnh hơn để chặn 'dòng nhựa' trôi vào môi trường
(VietQ.vn) - Rác thải nhựa không chỉ là những túi nilon trôi nổi trên mặt nước hay bãi biển, mà còn len lỏi vào chuỗi thực phẩm, không khí và cơ thể con người. Dù Việt Nam đã ban hành nhiều chính sách và tham gia các cam kết quốc tế, song việc quản lý, tái chế và chuẩn hóa quy trình xử lý nhựa vẫn còn thiếu đồng bộ, khiến vấn nạn này ngày càng nghiêm trọng.
Thúc đẩy giáo dục tài chính cho giới trẻ Việt Nam qua dự án 'Tự tin lập nghiệp'
Vượt rào cản phòng vệ thương mại, da giày Việt Nam tăng tốc xuất khẩu bền vững
Bản đồ Nông sản Việt: Bước đi số hóa giúp đặc sản Việt vươn xa
Ô nhiễm nhựa: từ biển khơi đến bàn ăn
Theo Tổ chức Bảo tồn thiên nhiên quốc tế (IUCN), Việt Nam nằm trong nhóm quốc gia xả rác thải nhựa ra biển nhiều nhất thế giới. Nghiên cứu của các nhà khoa học cho thấy, hạt vi nhựa (microplastic) không chỉ xuất hiện ở nước biển, mà còn tồn tại trong muối ăn, hải sản, thậm chí trong máu người. Một số loại nhựa còn mang theo vi khuẩn kháng kháng sinh và hóa chất độc hại, đe dọa sức khỏe lâu dài của cộng đồng.
Mỗi năm, Việt Nam phát sinh khoảng 3,1 triệu tấn rác thải nhựa, nhưng chỉ khoảng 20% được tái chế. Phần còn lại chủ yếu chôn lấp, đốt hoặc trôi ra môi trường. Trong khi đó, các tiêu chuẩn về phân loại, thu gom, tái chế nhựa vẫn chưa được áp dụng rộng rãi. Hiện Việt Nam đã ban hành QCVN 07:2009/BTNMT về quản lý chất thải rắn thông thường, TCVN 6705:2009 quy định về phân loại chất thải rắn sinh hoạt, tuy nhiên, các tiêu chuẩn chuyên biệt cho nhựa tái chế, bao bì nhựa thân thiện môi trường hay quy trình thu hồi vật liệu vẫn còn thiếu và phân tán.
Tình trạng thiếu chuẩn khiến nhiều cơ sở tái chế hoạt động manh mún, chưa đáp ứng yêu cầu môi trường, dẫn đến nguy cơ ô nhiễm thứ cấp. Không ít doanh nghiệp còn nhập nhựa phế liệu kém chất lượng, trái với Thông tư 08/2018/TT-BTNMT quy định tiêu chí nhựa phế liệu được phép nhập khẩu.

Ảnh minh họa.
Giải pháp và khung pháp lý hướng tới nền kinh tế tuần hoàn
Để chặn “dòng nhựa” từ gốc, các chuyên gia cho rằng Việt Nam cần đồng bộ cả chính sách, tiêu chuẩn kỹ thuật và hành vi xã hội. Về chính sách, Luật Bảo vệ Môi trường 2020 và Nghị định 08/2022/NĐ-CP lần đầu tiên quy định cụ thể trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR) – buộc doanh nghiệp phải thu hồi, tái chế hoặc đóng góp tài chính cho việc xử lý bao bì nhựa sau tiêu dùng. Tuy nhiên, việc triển khai EPR mới ở giai đoạn đầu, cần thêm hướng dẫn kỹ thuật và cơ chế giám sát minh bạch.
Bên cạnh đó, Việt Nam đã ban hành Chiến lược quốc gia về quản lý tổng hợp rác thải nhựa đến năm 2030 (theo Quyết định 1316/QĐ-TTg), đặt mục tiêu: giảm 75% rác thải nhựa trên biển, chấm dứt sử dụng nhựa dùng một lần tại siêu thị, trung tâm thương mại trước năm 2030, và 100% bao bì nhựa được tái sử dụng, tái chế hoặc xử lý đúng quy định.
Về tiêu chuẩn kỹ thuật, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đang xây dựng hệ thống TCVN mới về nhựa tái sinh và bao bì sinh học phân hủy hoàn toàn, sẽ là cơ sở để doanh nghiệp chứng nhận “xanh”, hướng tới mô hình kinh tế tuần hoàn và giảm phụ thuộc vào nhựa nguyên sinh.
Song song đó, cần chuẩn hóa hoạt động thu gom, phân loại tại nguồn theo hướng có lộ trình – quy định rõ trách nhiệm hộ gia đình, chính quyền địa phương và doanh nghiệp thu gom. Các địa phương như Đà Nẵng, TP.HCM đã bắt đầu thí điểm chuẩn phân loại 3 dòng rác: hữu cơ, tái chế và còn lại, bước đầu cho kết quả tích cực.
Ngoài ra, cần sớm hoàn thiện bộ tiêu chuẩn quốc gia về nhựa tái chế, bao bì thân thiện, quy trình phân loại – thu gom, đồng thời thực thi nghiêm EPR để tạo động lực thực chất cho doanh nghiệp và cộng đồng. Nếu không hành động mạnh tay, chỉ trong vài thập kỷ tới, những hạt vi nhựa hôm nay sẽ không chỉ nằm trên bờ biển, mà còn hiện hữu trong mỗi bữa ăn, mỗi hơi thở – trở thành “bóng ma vô hình” đe dọa tương lai sức khỏe cộng đồng.
Thanh Hiền









