Đặt khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo vào vị trí trung tâm để phát triển nông nghiệp bền vững
(VietQ.vn) - Khái niệm kinh tế tuần hoàn trong nông nghiệp không còn mới mẻ mà đã được đề cập và thực hiện từ hơn một thập kỷ qua. Tuy nhiên, sự chuyển biến về nhận thức và hành động mới thực sự rõ nét trong những năm gần đây. Để mô hình này thực sự phát huy hiệu quả và lan tỏa rộng, cần đặt khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo vào vị trí trung tâm.
Thực hành nền kinh tế tuần hoàn, hướng doanh nghiệp phát triển bền vững
Đồng bộ giải pháp kinh tế tuần hoàn và bảo vệ môi trường: Yêu cầu tất yếu
Hiện nay, khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo đóng vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình chuyển đổi nông nghiệp Việt Nam từ mô hình tăng trưởng theo chiều rộng sang phát triển chiều sâu và bền vững. Ông Nguyễn Trí Ngọc, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Tổng hội Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam cho biết, khái niệm kinh tế tuần hoàn trong nông nghiệp không còn mới mẻ mà đã được đề cập và thực hiện từ hơn một thập kỷ qua. Tuy nhiên, sự chuyển biến về nhận thức và hành động mới thực sự rõ nét trong những năm gần đây. Và để mô hình này thực sự phát huy hiệu quả, lan tỏa rộng, cần đặt khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo vào vị trí trung tâm.
Một tín hiệu tích cực mới đây là Quyết định số 540/QĐ-TTg ngày 19/6/2024 do Thủ tướng Chính phủ ban hành, phê duyệt Đề án phát triển khoa học và ứng dụng, chuyển giao công nghệ thúc đẩy kinh tế tuần hoàn trong nông nghiệp đến năm 2030. Đây được đánh giá là chính sách kịp thời, phản ánh đúng yêu cầu của thực tiễn. Nhiều tổ chức, doanh nghiệp đặt kỳ vọng rất nhiều vào lợi ích to lớn mà quá trình chuyển đổi này mang lại.
Cần đặt khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo vào vị trí trung tâm để phát triển nông nghiệp bền vững. (Ảnh minh họa)
Tuy nhiên, ông Ngọc cũng cho rằng vẫn còn một số khó khăn nhất định trong thúc đẩy kinh tế tuần hoàn, đặc biệt là ở khía cạnh chính sách. Một số quy định pháp luật liên quan hiện vẫn mang tính khái quát, cần được rà soát và điều chỉnh để phù hợp hơn với đặc thù của mô hình sản xuất tuần hoàn.
Ngoài ra, cách tiếp cận trong quản lý vẫn chủ yếu dựa trên tư duy sản xuất tuyến tính, trong khi các mô hình mới lại đòi hỏi sự linh hoạt và tính mở cao hơn. Những khoảng trống này phần nào ảnh hưởng đến khả năng thử nghiệm, triển khai các giải pháp đổi mới sáng tạo trong thực tiễn.
Ông cho rằng để xây dựng được hệ thống tiêu chuẩn kỹ thuật cho kinh tế tuần hoàn, trước hết phải xuất phát từ thực tiễn sản xuất. “Muốn ra được tiêu chí, tiêu chuẩn hay quy chuẩn phải có mô hình thực tế. Nhưng hiện nay nhiều mô hình mới chỉ đang làm dở dang, chưa đủ điều kiện để xây dựng tiêu chuẩn”, ông nói.
Trên cơ sở đó, ông đề xuất cho phép địa phương được tiếp cận khoa học công nghệ theo hướng linh hoạt, tạo điều kiện xây dựng mô hình thử nghiệm. Thông qua các mô hình này, địa phương có thể đề xuất và hoàn thiện bộ tiêu chí kỹ thuật, từ đó làm cơ sở cho việc nhân rộng và chuẩn hóa sau này.
Bên cạnh vấn đề về chính sách và thể chế, ông Ngọc cũng đặc biệt nhấn mạnh khó khăn về tài chính. Phần lớn doanh nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp hiện nay là doanh nghiệp nhỏ và vừa, hộ nông dân. Việc tiếp cận nguồn vốn đầu tư, đặc biệt là tài chính xanh, là thách thức rất lớn. Trong khi đó, đầu tư cho sản xuất tuần hoàn bao gồm cả xử lý phụ phẩm, tái chế, phát triển sản phẩm sinh học lại đòi hỏi nguồn lực đáng kể và dài hạn. Vì vậy, theo ông, rất cần có các chính sách tín dụng đặc thù để hỗ trợ nhóm doanh nghiệp này nếu muốn thúc đẩy kinh tế tuần hoàn một cách thực chất.
Mới đây, tại Hội nghị triển khai kế hoạch thực hiện Nghị quyết 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia trong ngành nông nghiệp và môi trường, Bộ trưởng Nông nghiệp và Môi trường Đỗ Đức Duy cũng khẳng định, khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo chính là xu thế tất yếu, là động lực cốt lõi giúp thúc đẩy phát triển bền vững trong lĩnh vực nông nghiệp và môi trường.
Bộ trưởng cho biết, thời gian qua, ngành nông nghiệp và môi trường đã có nhiều nỗ lực, sáng kiến ứng dụng công nghệ - từ các mô hình nông nghiệp công nghệ cao, chăn nuôi thông minh, đến giám sát môi trường bằng cảm biến, xây dựng bản đồ số, cơ sở dữ liệu đất đai, rừng và khí tượng. Đây là những chuyển biến tích cực của ngành, nhưng để xác định “đột phá, phát triển” như yêu cầu của Nghị quyết số 57-NQ/TW chúng ta vẫn còn rất nhiều việc phải làm.
Trong đó, cần tập trung vào các nhiệm vụ cụ thể như: Thứ nhất là tháo gỡ, cắt giảm triệt để các điều kiện, thủ tục hành chính để thúc đẩy phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, sản xuất, thương mại các sản phẩm.
Thứ hai là sắp xếp hệ thống tổ chức, bảo đảm "tinh, gọn, mạnh, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả”, chuyển đổi số toàn diện trong toàn ngành và bộ; số hóa ngay từ khi xây dựng văn bản đến sản xuất thực tiễn, bảo đảm mọi hoạt động được số hóa, được truy xuất toàn diện.
Thứ ba là thay đổi toàn diện cách đặt hàng, giao nhiệm vụ khoa học công nghệ hàng năm, trong đó nghiên cứu khoa học phải xuất phát từ yêu cầu sản xuất thực tiễn, cung cấp các giải pháp, sản phẩm phục vụ sản xuất, thương mại hóa sản phẩm, nâng cao chất lượng, an toàn và giá trị của sản phẩm….
Thanh Tùng









