Tiêu chuẩn quốc tế mới hỗ trợ nỗ lực giảm thiểu rác thải trên thế giới

author 06:37 04/09/2025

(VietQ.vn) - Hai tiêu chuẩn mới đều nhằm mục đích giúp các cơ sở ủ phân xác định rõ hơn hiệu quả của quy trình phân hủy các sản phẩm phân hủy sinh học, từ giấy đến thức ăn thừa.

Theo Liên Hợp Quốc tính đến năm 2023, các thành phố trên toàn cầu đã sản xuất hơn 2,1 tỷ tấn phế thải sinh học - con số đang trên đà đạt 3,8 tấn vào năm 2025. Việc quản lý lượng rác thải này hiện tiêu tốn khoảng 252 tỷ đô la mỗi năm, chưa kể chi phí liên quan đến ô nhiễm, tác động sức khỏe cộng đồng và các biện pháp xử lý rác thải kém. Trong đó, thực phẩm đang là một phần ngày càng gia tăng của vấn đề này. Tại Hoa Kỳ, thực phẩm chiếm khoảng 22% chất thải rắn đô thị và chiếm một phần ba tổng lượng rác thải trên toàn thế giới, góp phần gây ra khí thải mê-tan và khí nhà kính.

Một giải pháp khả thi là ủ phân, quá trình tự nhiên tái chế vật liệu hữu cơ thành phụ gia đất giàu dinh dưỡng có thể cải thiện chất lượng đất và giúp giữ ẩm. Thay vì bị chôn lấp, ủ phân có thể giúp giải quyết vấn đề chất thải rắn một cách chủ động, chuyển hướng chất thải thải ra khí mê-tan khỏi bãi chôn lấp – dù là bao bì phân hủy, rác thải thực phẩm hay vật liệu hữu cơ khác, đồng thời trả lại chất dinh dưỡng cho đất dưới dạng phân hữu cơ.

Để hỗ trợ những nỗ lực này, Ủy ban quản lý chất thải (D34) đã giới thiệu hai tiêu chuẩn mới. Được phát triển bởi tiểu ban về xử lý, thu hồi và tái sử dụng (D34.03), các tiêu chuẩn này phác thảo phương pháp thử nghiệm để xác định hiệu quả phân hủy của sản phẩm phân hủy sinh học đã được chứng nhận tại cơ sở ủ phân thực tế.

Cả hai tiêu chuẩn đều nhằm mục đích giúp cơ sở ủ phân xác định rõ hơn hiệu quả của quy trình phân hủy các sản phẩm phân hủy sinh học, từ giấy đến thức ăn thừa.

Rhodes Yepsen - thành viên Ủy ban kiêm Giám đốc điều hành tại Viện Sản phẩm Phân hủy Sinh học (BPI) cho biết: “Hai phương pháp thử nghiệm thực địa mới sẽ hữu ích cho các nhà vận hành cơ sở ủ phân, nhà thiết kế hệ thống, nhà hoạch định chính sách và nhà sản xuất sản phẩm/bao bì, những người đang tìm hiểu về các điều kiện cần thiết để phân hủy thành công sản phẩm phân hủy sinh học đã được chứng nhận tại cơ sở ủ phân thực tế. Vì ủ phân không phải quy trình chuẩn hóa, các phương pháp thử nghiệm này cung cấp công cụ quan trọng bằng cách xác định các điều kiện ủ phân tại chỗ cần được theo dõi và báo cáo để hiểu rõ các biến số này ảnh hưởng như thế nào đến quá trình phân hủy sản phẩm phân hủy sinh học".

Cả hai tiêu chuẩn mới đều nêu rõ phương pháp thử nghiệm đo lường mức độ phân hủy của các vật phẩm có thể ủ trong điều kiện ủ tại chỗ đã được thiết lập: Phương pháp thử nghiệm tiêu chuẩn để xác định mức độ phân hủy của vật phẩm trong điều kiện ủ phân tại chỗ đã xác định bằng cách sử dụng liều lượng vật phẩm (D8618); Phương pháp thử nghiệm tiêu chuẩn để xác định mức độ phân hủy của các vật phẩm trong điều kiện ủ phân tại chỗ đã xác định bằng cách sử dụng các thùng chứa (D8619).

Cả hai đều chỉ đánh giá mức độ phân hủy, một trong nhiều yêu cầu để xác định khả năng phân hủy tổng thể của một sản phẩm. Sự khác biệt giữa hai tiêu chuẩn nằm ở khâu chuẩn bị mẫu: Tiêu chuẩn D8619 kiểm tra các vật liệu có thể phân hủy trong vật chứa (chẳng hạn như túi lưới), trong khi Tiêu chuẩn D8618 kiểm tra chúng ngoài trời (như khi cho vào đống phân ủ). Phương pháp thùng chứa thường được sử dụng tại các cơ sở mà vật chứa vẫn còn nguyên vẹn trong quá trình thử nghiệm và có thể được tháo ra, nạp lại khi cần thiết.

Cả hai tiêu chuẩn đều nhằm mục đích bổ sung cho thử nghiệm trong phòng thí nghiệm bằng cách giúp xây dựng niềm tin rằng các sản phẩm được thử nghiệm hoặc chứng nhận sẽ phân hủy trong các cơ sở ủ phân thực tế. ASTM ban đầu phát triển tiêu chuẩn về khả năng ủ phân dựa trên cả nghiên cứu trong phòng thí nghiệm và thực địa vào những năm 1990, thiết lập các thử nghiệm phân tầng về khả năng phân hủy sinh học, phân hủy và độc tính đối với thực vật.

Yepsen giải thích: “Hai tiêu chuẩn nêu rõ hướng dẫn đánh giá khả năng của một cơ sở ủ phân trong việc phân hủy các sản phẩm phân hủy được chứng nhận đang ngày càng phổ biến với người tiêu dùng và doanh nghiệp, chẳng hạn như túi đựng thức ăn thừa và các vật dụng phục vụ ăn uống có thể phân hủy như cốc, bát và hộp đựng thức ăn mang về. Điều này rất quan trọng nếu chúng ta muốn có cơ sở hạ tầng phù hợp để quản lý thành công các sản phẩm phân hủy được cùng với thức ăn thừa".

 Tiểu My (theo ASTM)

Thích và chia sẻ bài viết:

tin liên quan

video hot

Về đầu trang