Đắk Nông đẩy mạnh ứng dụng công nghệ cao, tăng giá trị nông sản

(VietQ.vn) - Nhờ đẩy mạnh ứng dụng công nghệ cao, tỉnh Đắk Nông đang tăng giá trị cho các loại nông sản, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm và mở rộng thị trường xuất khẩu.
Sự kiện: Năng suất chất lượng
Doanh nghiệp tăng năng suất, chất lượng thông qua ứng dụng công nghệ 4.0
Ứng dụng công nghệ số trong truy xuất nguồn gốc hàng hóa nâng cao chất lượng và ngăn chặn gian lận thương mại
Ứng dụng công nghệ 4.0 - chìa khóa nâng cao năng suất doanh nghiệp
Ứng dụng công nghệ cao, thúc đẩy tăng năng suất lao động trong kỷ nguyên mới
Đắk Nông – mảnh đất của tiềm năng nông nghiệp và ứng dụng công nghệ cao
Nằm ở cửa ngõ phía Tây Nam của vùng Tây Nguyên, tỉnh Đắk Nông được thiên nhiên ưu ái với địa hình, khí hậu và nguồn nước phong phú, tạo nên môi trường lý tưởng cho phát triển nông nghiệp. Trong bối cảnh ngành nông nghiệp đang chuyển mình theo xu hướng công nghiệp hóa và hiện đại hóa, tỉnh Đắk Nông đã không ngừng tìm kiếm và ứng dụng các giải pháp công nghệ tiên tiến nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, giảm chi phí và tạo ra giá trị gia tăng cho nông sản.
Ứng dụng công nghệ trong sản xuất, chế biến nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, giảm chi phí và tạo ra giá trị gia tăng cho nông sản. Ảnh minh họa
Theo ông Phạm Tuấn Anh – nguyên Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Đắk Nông (nay là Sở Nông nghiệp và Môi trường), trong những năm qua Đắk Nông đã tăng cường các giải pháp đổi mới sáng tạo, tập trung vào việc thúc đẩy sản xuất nông sản đạt tiêu chuẩn, chuyển đổi sang mô hình sản xuất hữu cơ và sản xuất tuần hoàn. Các chính sách hỗ trợ, các nghị quyết của UBND tỉnh cùng với sự tham gia tích cực của doanh nghiệp, hợp tác xã và nông dân đã tạo nên một bức tranh toàn diện về nông nghiệp hiện đại, nơi công nghệ được xem là động lực then chốt giúp nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm.
Ứng dụng công nghệ trong sản xuất nhà màng và hệ thống canh tác thông minh
Từ năm 2022, Công ty Cổ phần Nông nghiệp Sạch Đắk Nông đã bắt đầu xây dựng hai khu nhà màng với diện tích tổng cộng hơn 4.500 m² tại xã Đắk Nia, thành phố Gia Nghĩa. Các khu nhà màng này được thiết kế chuyên dụng cho việc trồng dưa lưới, dâu tây, dưa leo, hoa và các loại rau khác. Điểm đặc biệt của mô hình này nằm ở việc đầu tư hệ thống tưới nước và bón phân tự động 100% cùng với các thiết bị cảm biến giám sát các chỉ số môi trường như độ ẩm, nhiệt độ, dưỡng chất trong đất và nước. Các thiết bị hiện đại liên tục đo đạc chỉ số dinh dưỡng, độ pH của nước mỗi ngày, đảm bảo mọi yếu tố cần thiết cho quá trình phát triển của cây trồng đều được kiểm soát chặt chẽ.
Bà Bùi Thị Khánh Hòa – Giám đốc Công ty Cổ phần Nông nghiệp Sạch Đắk Nông cho biết, việc ứng dụng công nghệ giúp giảm thiểu rủi ro do thời tiết khắc nghiệt và sự tấn công của sâu bệnh, đồng thời nâng cao hiệu quả sản xuất. “Chúng tôi gần như không cần dựa vào lao động thủ công nhờ vào hệ thống máy móc hiện đại điều khiển toàn bộ quy trình chăm sóc cây trồng. Nếu phát sinh bất kỳ hiện tượng bất thường nào, hệ thống sẽ tự động gửi cảnh báo về ứng dụng trên điện thoại để nhân viên kiểm tra và xử lý ngay lập tức,” bà giải thích.
Nhờ vào mô hình này, sản phẩm của công ty không những đạt tiêu chuẩn GlobalGAP mà còn được thị trường trong và ngoài nước đón nhận nồng nhiệt. Điều này cho thấy, ứng dụng công nghệ trong nông nghiệp không chỉ giúp tối ưu hóa quy trình sản xuất mà còn tạo ra các sản phẩm có chất lượng cao, góp phần gia tăng giá trị kinh tế cho nông dân và doanh nghiệp.
Không chỉ có các doanh nghiệp lớn, các hợp tác xã (HTX) nông nghiệp tại Đắk Nông cũng đang dần chuyển mình theo hướng ứng dụng công nghệ cao. Điển hình, như Trung tâm Thông tin và Ứng dụng Khoa học Công nghệ, Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Đắk Nông triển khai Dự án “Áp dụng công nghệ sản xuất chế phẩm vi sinh đa chức năng và phân bón hữu cơ vi sinh vật đa chức năng tại Đắk Nông”. Sau một thời gian triển khai, dự án đã góp phần định hướng phát triển nông nghiệp bền vững cho người dân...
Đến nay, đa số người dân và các HTX trồng cà phê đã tiếp nhận quy trình và biết cách xử lý phế phụ phẩm trong nông nghiệp làm phân bón hữu cơ vi sinh, góp phần giảm thiểu ô nhiễm môi trường, giảm chi phí sản xuất. Chất lượng sản phẩm nông sản được nâng cao. Như gia đình ông Trần Văn Lợi ở thôn 2, xã Quảng Khê, huyện Đắk Glong có 2ha cà phê kinh doanh và 1ha hồ tiêu, hằng năm số lượng vỏ cà phê thải ra môi trường lên đến trên 3,5 tấn.
Theo chia sẻ của ông Lợi, trước đây, lượng vỏ cà phê được ông bón trực tiếp vào gốc cà phê, tiêu, nhưng cách bón này chỉ có tác dụng làm cho đất tơi xốp. Bây giờ, khi đã áp dụng mô hình ủ phân vi sinh, ông Lợi đã tận dụng lượng vỏ cà phê này để ủ thành phân hữu cơ, bổ sung tốt nguồn dinh dưỡng cho cây trồng, nâng cao hiệu quả kinh tế cho gia đình.
Còn ở HTX Công Bằng Đắk Ka, huyện Đắk R’lấp, dù mới thành lập được hơn 4 năm nhưng đã đầu tư sản xuất, chế biến cà phê chất lượng cao bài bản, đạt chuẩn chất lượng. Ngoài việc chăm sóc cà phê theo hướng đặc sản, HTX đã đầu tư hơn 1 tỷ đồng xây dựng 1.000m2 nhà kính để phơi sấy và các máy móc rang xay hiện đại.
Hay HTX Nông nghiệp – Thương mại – Dịch vụ Hữu cơ Hoàng Nguyên tại huyện Đắk Song được thành lập vào năm 2018 với 35 thành viên ban đầu, HTX đã nhanh chóng phát triển thành liên kết sản xuất hồ tiêu hữu cơ với 200 thành viên trên diện tích gần 1.000 ha.
Sau khi liên kết sản xuất, tất cả các thành viên đều được tập huấn về quy trình canh tác tiêu hữu cơ, áp dụng công nghệ cao và các biện pháp kiểm soát môi trường. Các nông dân được hướng dẫn chuyển đổi từ việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật và phân bón vô cơ sang sản xuất xanh, sạch và bền vững. Việc sử dụng các sản phẩm phân bón và thuốc bảo vệ thực vật thân thiện với môi trường, cùng với quy trình thu hoạch và bảo quản sau thu hoạch được áp dụng nghiêm ngặt theo tiêu chuẩn quốc tế, đã tạo ra sản phẩm tiêu hữu cơ có nguồn gốc rõ ràng, chất lượng ổn định và giá trị kinh tế cao.
Theo đó, toàn bộ quy trình sản xuất của hợp tác xã đã đạt được các chứng nhận quốc tế như USDA, EU, JAS, Canada cũng như chứng nhận Nông nghiệp hữu cơ quốc gia (OCOP 3 sao) cho 195,6 ha hồ tiêu. Mỗi năm, hợp tác xã xuất khẩu từ 200-300 tấn hồ tiêu hữu cơ với giá trị sản phẩm tăng gấp đôi so với mức thông thường. Sự thành công này đã khẳng định tầm quan trọng của việc ứng dụng công nghệ cao trong liên kết sản xuất và kiểm soát chất lượng sản phẩm nông nghiệp.
Bên cạnh các sản phẩm truyền thống như hồ tiêu, các cơ sở tại huyện Tuy Đức cũng đang đầu tư mạnh mẽ vào công nghệ chế biến sâu, đặc biệt là với cây mắc-ca. Ban đầu chỉ là mô hình khảo nghiệm trên diện tích 2 ha vào năm 2010, hiện nay cây mắc-ca đã dần trở thành cây trồng chủ lực của Đắk Nông với diện tích khoảng 3.500 ha. Nhận thấy tiềm năng về giá trị dinh dưỡng và nhu cầu tiêu thụ lớn, nhiều doanh nghiệp đã đầu tư trang thiết bị hiện đại để chế biến sâu hạt mắc-ca, tạo ra các sản phẩm sấy khô đạt chứng nhận OCOP 3 sao.
Huyện Tuy Đức đã thành lập 2 HTX sản xuất và thu mua hạt mắc-ca tại xã Quảng Trực. Các sản phẩm hạt mắc-ca sấy khô của hai cơ sở chế biến này không chỉ đảm bảo tiêu chuẩn an toàn mà còn được chứng nhận về chất lượng, góp phần mở rộng thị trường tiêu thụ trong nước và quốc tế. Một số sản phẩm thậm chí đã đạt tiêu chuẩn VietGAP, khẳng định giá trị và độ tin cậy của nông sản chế biến từ hạt mắc-ca Đắk Nông.
Không chỉ dừng lại ở sản xuất nông sản, Đắk Nông còn đạt được nhiều thành tựu trong lĩnh vực chăn nuôi ứng dụng công nghệ. Từ năm 2020 đến nay, tỉnh đã thu hút được 28 dự án chăn nuôi heo quy mô lớn với tổng đàn vượt 500.000 con. Các dự án này áp dụng các mô hình chuồng lạnh, chuồng kín cùng với hệ thống máng ăn, máng uống tự động, giúp kiểm soát chặt chẽ quá trình nuôi và giảm thiểu nguy cơ dịch bệnh.
Theo Phó Chủ tịch UBND tỉnh Đắk Nông Lê Trọng Yên, việc ứng dụng công nghệ trong chăn nuôi hiện đại không những đảm bảo an toàn thực phẩm mà còn góp phần tăng cường năng lực cạnh tranh của sản phẩm chăn nuôi trên thị trường. Các mô hình chăn nuôi hiện đại đang dần được nhân rộng, mở ra cơ hội lớn cho việc phát triển kinh tế nông thôn và nâng cao đời sống người dân.
Nhờ sự hỗ trợ của công nghệ, nông dân không còn phụ thuộc hoàn toàn vào yếu tố thời tiết và lao động thủ công. Họ có thể quản lý, theo dõi và điều chỉnh quy trình sản xuất qua các hệ thống giám sát tự động, từ đó tối ưu hóa năng suất và giảm thiểu rủi ro do sâu bệnh hay thời tiết xấu. Sự thay đổi này không chỉ giúp tăng thu nhập cho người dân mà còn góp phần tạo ra môi trường kinh doanh minh bạch, cạnh tranh lành mạnh trên thị trường nông sản.
Duy Trinh