Gia hạn thời gian điều tra chống bán phá giá ống đồng đúc của Việt Nam

author 14:47 30/01/2022

(VietQ.vn) - Ủy ban Thương mại Hàn Quốc (KTC) đã chính thức gia hạn thời gian điều tra sơ bộ vụ việc chống bán phá giá đối với sản phẩm ống đồng đúc có mã HS 7411.10.0000 có xuất xứ từ Việt Nam và Trung Quốc.

Được biết, KTC khởi xướng điều tra vụ việc vào ngày 29/10/2021, trên cơ sở hồ sơ yêu cầu được tiếp nhận vào ngày 8/10/2021. Ống đồng xuất khẩu sang Hoa Kỳ, Hàn Quốc cũng là mặt hàng nằm trong danh sách cảnh báo sản phẩm có nguy cơ bị áp dụng biện pháp chống lẩn tránh, gian lận xuất xứ, chuyển tải bất hợp pháp hoặc biện pháp phòng vệ thương mại (PVTM) được Cục PVTM công bố trước đó.

Theo kế hoạch ban đầu, KTC dự kiến tiến hành điều tra sơ bộ trong vòng 3 tháng và ban hành kết luận sơ bộ vào ngày 28/1/2022. Trong thông báo gia hạn mới của KTC, thời gian điều tra sơ bộ vụ việc chống bán phá giá được kéo dài đến ngày 28/3/2022 (thêm 2 tháng so với kế hoạch).

Để đảm bảo lợi ích chính đáng của mình, Cục PVTM khuyến nghị các doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu tiếp tục theo dõi chặt chẽ thông tin, diễn biến vụ việc và chủ động phối hợp với Cơ quan điều tra cũng như Cục Phòng vệ thương mại trong suốt quá trình vụ việc.

Theo Cục PVTM, Bộ Công Thương, cho đến hết năm 2020, đã có 201 vụ việc PVTM do nước ngoài khởi xướng điều tra đối với hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam, tác động đến khoảng 12 tỷ USD kim ngạch và hàng chục nghìn doanh nghiệp xuất khẩu. Tính đến quý II/2021, đã có 207 vụ việc PVTM do 21 quốc gia/ vùng lãnh thổ khởi xướng điều tra đối với hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam.

Điều đáng lưu ý, trong năm 2020, Australia nổi lên là nước kiện PVTM nhiều thứ hai (sau Hoa Kỳ) với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam với 7 vụ việc, bao gồm 4 vụ việc CBPG và 3 vụ việc CTC. Trong tất cả các vụ việc này, Australia đều điều tra rất nhiều chương trình trợ cấp và cáo buộc tình hình thị trường đặc biệt - một biến thể khác của cáo buộc nền kinh tế phi thị trường.

Ảnh minh hoạ

Ngoài ra, hiện, hàng hóa bị áp dụng biện pháp PVTM nhiều nhất vẫn là sắt, thép các loại (chiếm 40,2% số vụ việc PVTM); nhựa và sản phẩm nhựa (chiếm 11,2%); xe cộ và phụ tùng (chiếm 10,2%); các thành phẩm từ sắt, thép (chiếm 9,0%) và máy móc, thiết bị điện, điện tử (chiếm 6,0%).

Qua các vụ việc do nước ngoài điều tra, áp dụng biện pháp PVTM đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam đã cho thấy một số xu hướng chính. Đó là số lượng các vụ việc điều tra có xu hướng gia tăng. Theo đó, chỉ tính riêng trong năm 2020, số lượng vụ việc tiến hành điều tra đã bằng hơn gấp đôi số lượng vụ việc trong cả năm 2019 và dự kiến trong năm tới sẽ còn gia tăng số vụ việc. Phạm vi sản phẩm bị áp dụng các biện pháp PVTM cũng đang được mở rộng.

Trong giai đoạn từ 2011 đến 2020, có gần 60 loại sản phẩm, hàng hóa bị điều tra áp dụng các biện pháp PVTM. So với giai đoạn trước đó (từ năm 1994-2010) có 39 loại sản phẩm hàng hóa, chủ yếu tập trung vào mặt hàng nông thủy sản và dệt may bị điều tra áp dụng các biện pháp PVTM, số lượng loại mặt hàng sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam bị điều tra áp dụng các biện pháp PVTM gần đây đã có sự mở rộng đáng kể.

Đồng thời, các vụ điều tra “kép” tăng lên. Trong đó, nếu trước đây chỉ có Hoa Kỳ thường điều tra “kép” đối với Việt Nam (điều tra cả hành vi trợ cấp và hành vi bán phá giá trong cùng một vụ việc) thì hiện nay rất nhiều nước như Ấn Độ, Canada, Australia cũng chuyển sang điều tra kép đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam. Các cuộc điều tra này thường tạo ra gánh nặng lớn với cả cơ quan quản lý và các doanh nghiệp, hiệp hội liên quan do lượng dữ liệu, thông tin phải cung cấp tăng lên gấp đôi trong cùng một khoảng thời gian như trước đây.

Ngoài ra, thời gian gần đây, “thị trường đặc biệt” là công cụ được nhiều nước sử dụng khi điều tra PVTM với các nước, đặc biệt là ở châu Á, trong đó có Việt Nam. Đây được coi là biến thể của cách áp dụng “nền kinh tế phi thị trường”, thông qua “cáo buộc” Chính phủ nước xuất khẩu tác động đến thị trường nguyên vật liệu dẫn đến việc không sử dụng số liệu do doanh nghiệp kê khai trong tính toán biên độ bán phá giá, làm biên độ phá giá bị đẩy lên cao hơn so với thực tế.

Mặt khác, các nước đang có xu hướng thắt chặt, đòi hỏi khắt khe hơn trong quá trình điều tra, áp dụng các biện pháp PVTM. Điều này dẫn đến các doanh nghiệp xuất khẩu gặp khó khăn hơn trong việc hợp tác với cơ quan điều tra để cung cấp thông tin và trả lời bản câu hỏi.

Bảo Lâm

Thích và chia sẻ bài viết:

tin liên quan

video hot

Về đầu trang