Phát hiện và xử lý nghiêm các trường hợp mượn xuất xứ Việt Nam

author 05:53 28/08/2019

(VietQ.vn) - Lãnh đạo Bộ Công Thương cho biết thời gian tới sẽ chủ động phối hợp với cơ quan có thẩm quyền của nước nhập khẩu trong trường hợp có yêu cầu xác minh xuất xứ nhằm phát hiện và xử lý nghiêm các trường hợp mượn xuất xứ Việt Nam để tránh việc giả mạo xuất xứ.

Bên lề Hội nghị “Hiệp định EVFTA: Một số cam kết quan trọng về sở hữu trí tuệ và những điều cần lưu ý” vừa diễn ra, Bộ trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh đã có những trao đổi với phóng viên Chất lượng Việt Nam Online (VietQ.vn) về những vấn đề liên quan đến việc thực thi các cam kết của Việt Nam trong hiệp định EVFTA. 

Để những lợi ích, cơ hội mà Hiệp định EVFTA mang lại sớm được hiện thực hóa, đề nghị Bộ trưởng cho biết kế hoạch tới đây của Bộ Công Thương đối với công tác phê chuẩn, chuẩn bị cho việc thực thi Hiệp định?                 

Với các cơ hội lớn mà Hiệp định EVFTA dự kiến sẽ mang lại cho cả hai bên, Việt Nam và EU đều thống nhất trong thời gian tới sẽ nỗ lực thúc đẩy quá trình phê chuẩn Hiệp định theo quy trình thủ tục nội bộ để sớm mang lại lợi ích thiết thực cho doanh nghiệp và người dân hai bên.

Theo quy định của mỗi bên, Hiệp định EVFTA sẽ cần phải được Quốc hội phê chuẩn thì mới chính thức có hiệu lực, đi vào thực thi. Theo đó, trước mắt chúng ta vẫn còn phải trải qua một chặng đường nữa là phê chuẩn Hiệp định này. Chặng đường này dài hay ngắn phụ thuộc rất nhiều vào nỗ lực của cả Việt Nam và Liên minh châu Âu.  

Về phía Bộ Công Thương, với quá trình dài thực hiện công tác hội nhập kinh tế quốc tế, đã có nhiều kinh nghiệm, nhất là trong việc xây dựng chính sách gắn với phục vụ doanh nghiệp, người dân và hướng dẫn thực thi các cam kết kinh tế quốc tế. Hiện nay, thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Công Thương đang chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan xây dựng bộ hồ sơ trình Quốc hội xem xét phê chuẩn Hiệp định EVFTA để sớm đưa Hiệp định này vào đời sống. Đối với việc trình phê chuẩn Hiệp định EVIPA, công việc này sẽ do Bộ Kế hoạch và Đầu tư tiến hành.

Song song với việc này, công tác tuyên truyền, phổ biến về Hiệp định EVFTA cũng sẽ được Bộ Công Thương tập trung thực hiện dưới nhiều hình thức thiết thực nhằm cấp thông tin một cách đầy đủ, chính xác cho các cơ quan quản lý, cộng đồng doanh nghiệp và người dân, giúp mọi thành phần của nền kinh tế nắm bắt các nội dung, cam kết, từ đó tận dung được tối đa những cơ hội, lợi ích mà Hiệp định mang lại.

Ngoài ra, để tạo nền tảng pháp lý đầy đủ cho việc thực hiện các cam kết của Hiệp định sau khi có hiệu lực, chúng tôi cũng đang tích cực phối hợp với Bộ Tư pháp tiến hành rà soát các văn bản pháp luật hiện hành để từ đó đề xuất sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các văn bản hướng dẫn thực thi cam kết. Bên cạnh đó, Bộ Công Thương cũng sẽ chủ động và khẩn trương xây dựng Chương trình hành động tổng thể và toàn diện của Chính phủ để bảo đảm việc thực thi được đồng bộ, đầy đủ và hiệu quả.

Bộ trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh. Ảnh: Thanh Niên 

Bên cạnh những cơ hội lớn, một số ý kiến cho rằng Hiệp định EVFTA có thể cũng tạo ra một số thách thức mà doanh nghiệp trong nước sẽ phải đối mặt khi Hiệp định chính thức có hiệu lực. Quan điểm của Bộ trưởng về vấn đề này như thế nào và doanh nghiệp Việt Nam cần có những chuẩn bị gì để vượt qua những thách thức này?

Được coi là đòn bẩy cho tăng trưởng, sau 6 năm, quá trình đàm phán EVFTA đã khép lại và  mở ra cơ hội lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam thâm nhập vào thị trường đầy tiềm năng với 508 triệu dân và tổng sản phẩm nội địa (GDP) khoảng 18.000 tỷ USD của EU. Tất nhiên, cùng với các cơ hội đặt ra thì việc thực thi Hiệp định EVFTA cũng đặt ra không ít thách thức, đặc biệt là với Việt Nam là nền kinh tế có trình độ phát triển thấp nhất so với các nước trong khu vực đã ký FTA với EU.

Thứ nhất, sức ép cạnh tranh là vấn đề đầu tiên đối với nền kinh tế và các doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, cạnh tranh luôn có tính hai mặt rõ ràng. Một mặt, cạnh tranh sẽ rất tiêu cực đối với các doanh nghiệp yếu kém, nhất là các doanh nghiệp vẫn dựa vào sự bao cấp của Nhà nước, các doanh nghiệp có công nghệ sản xuất và kinh doanh lạc hậu. Mặt khác, cạnh tranh mang lại động lực cho các doanh nghiệp liên tục đổi mới và sáng tạo, đồng thời tạo ra thêm nhiều sự lựa chọn cho người tiêu dùng. Quan trọng hơn cả, chúng ta cần nhìn nhận đây là con đường mà sớm hay muộn cũng phải đi qua để đổi mới mô hình tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế thành công, theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, chất lượng và hiệu quả của tăng trưởng kinh tế.

Thứ hai, các cam kết nhiều lĩnh vực mới trong Hiệp định EVFTA cũng đặt ra yêu cầu điều chỉnh, sửa đổi các quy định pháp luật. Trong thời gian qua, Quốc hội đã chủ động đưa ra lộ trình sửa đổi nhiều văn bản quy phạm pháp luật quan trọng như Bộ luật Lao động, Luật Sở hữu trí tuệ v.v... Đây chính là các bước đi chủ động để chuẩn bị cho quá trình hội nhập, trong đó có việc thực hiện Hiệp định EVFTA.

Cuối cùng, thị trường EU là một trong những thị trường có đòi hỏi cao nhất trên thế giới. Việc bước qua được các rào cản thuế quan không có nghĩa là hàng hóa và dịch vụ của ta sẽ được thị trường EU chấp nhận. EU có nhiều quy định không chỉ liên quan đến tiêu chuẩn sản phẩm mà cả đối với quy trình sản xuất ra sản phẩm đó (ví dụ không được dùng hải sản được đánh bắt bất hợp pháp hay không được dùng gỗ khai thác từ rừng tự nhiên mà chưa được phép). Hay các đòi hỏi về lao động, môi trường của EU cũng thuộc hàng cao nhất thế giới. Chính vì vậy, doanh nghiệp cũng như các cơ quan quản lý nhà nước của ta phải không ngừng vươn lên thì mới có thể vượt qua được các thách thức, khai thác được các cơ hội do Hiệp định EVFTA đem lại.

Đối với doanh nghiệp Việt Nam, trong quá trình đàm phán, Đoàn đàm phán đã tích cực cung cấp đầy đủ thông tin cũng như tham vấn ý kiến của các hiệp hội doanh nghiệp với mong muốn kết quả đàm phán phải đáp ứng được tốt nhất lợi ích của doanh nghiệp. Trong quá trình này, một số hiệp hội như dệt may, da giày, thủy sản và nhiều doanh nghiệp khác đã thể hiện sự quan tâm đặc biệt.

Tuy nhiên, để khai thác được tối đa lợi ích mà hiệp định này mang lại, các doanh nghiệp của chúng ta, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cần chủ động nghiên cứu thông tin để có sự chuẩn bị tích cực. Việc chuẩn bị nên được tiến hành toàn diện từ nghiên cứu cơ hội, thách thức của thị trường EU đến các giải pháp như nâng cao chất lượng, mẫu mã sản phẩm; phát huy lợi thế cạnh tranh, tăng hiệu suất, v.v. Cần lưu ý là để tận dụng được ưu đãi từ Hiệp định, doanh nghiệp cần đảm bảo sản phẩm của mình đáp ứng yêu cầu về quy tắc xuất xứ, về tiêu chuẩn kỹ thuật và về vệ sinh an toàn động thực vật của EU.

Sau khi Hiệp định EVFTA được ký kết, Việt Nam sẽ có những bước triển khai cụ thể như thế nào? Riêng Bộ Công Thương sẽ có những bước đi ra sao để hỗ trợ doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa sang thị trường khó tính nhưng đầy tiềm năng này?

Theo quy định của mỗi bên, Hiệp định EVFTA sẽ cần phải được Quốc hội phê chuẩn thì mới chính thức có hiệu lực, đi vào thực thi. Do vậy, trước mắt chúng ta vẫn còn phải trải qua một chặng đường nữa là phê chuẩn cả 2 Hiệp định này. Chặng đường này dài hay ngắn phụ thuộc rất nhiều vào nỗ lực của cả Việt Nam và Liên minh châu Âu. Đối với Hiệp định Bảo hộ đầu tư (IPA), quá trình phê chuẩn có thể sẽ lâu hơn vì còn cần tất cả các nước Thành viên EU phê chuẩn thì mới có hiệu lực.

FTA Việt Nam – EU là Hiệp định đầu tiên của EU với một nước đang phát triển trong khu vực. Để Hiệp định được ký kết và có hiệu lực thì ta phải chứng minh được là Việt Nam có khả năng thực thi các tiêu chuẩn cao của Hiệp định FTA. Trong đó có một số lĩnh vực sau EU rất quan tâm:

+ Thứ nhất là các vấn đề liên quan đến phát triển bền vững. Chúng ta đều biết EU rất quan tâm đến phát triển bền vững và yêu cầu tất cả các đối tác thương mại cũng cần cùng hành động vì các mục tiêu toàn cầu. Quan ngại này được giải tỏa phần nào khi tại kỳ họp Quốc hội tháng 5-6 vừa qua, Quốc hội đã phê chuẩn Công ước số 98 về quyền tổ chức và thương lượng tập thể của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), đồng thời thảo luận theo hướng tích cực dự thảo Bộ luật Lao động sửa đổi đã được lấy ý kiến công khai trước đó. Đối với dự thảo Bộ luật Lao động sửa đổi, dự luật này dự kiến cũng sẽ được phê chuẩn tại kỳ họp tháng 10 năm 2019 của Quốc hội. 

+ Thứ hai là vấn đề kiểm dịch động thực vật. Trong Hiệp định FTA, EU cam kết sẽ mở cửa thị trường cho nhiều mặt hàng nông sản của ta nhưng cũng cần ta có hợp tác với EU để đảm bảo hàng của ta sang EU đảm bảo được các yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm. Hiện hai bên đang tích cực thảo luận để thống nhất được cơ chế hợp tác kỹ thuật trước khi Hiệp định được chính thức phê chuẩn.

+ Thứ ba là chống đánh bắt cá bất hợp pháp và không khai báo (IUU). Vừa qua ta bị EU rút thẻ vàng do còn một số vi phạm. Đây là lĩnh vực cũng cần có tiến bộ trước khi Hiệp định được phê chuẩn.

Về phía Bộ Công Thương, với quá trình dài thực hiện công tác hội nhập kinh tế quốc tế, đã có nhiều kinh nghiệm, nhất là trong việc xây dựng chính sách gắn với phục vụ doanh nghiệp, người dân và hướng dẫn thực thi các cam kết kinh tế quốc tế. Hiện nay, thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Công Thương đang chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan xây dựng bộ hồ sơ trình Quốc hội xem xét phê chuẩn Hiệp định EVFTA để sớm đưa Hiệp định này vào đời sống. Đối với việc trình phê chuẩn Hiệp định EVIPA, công việc này sẽ do Bộ Kế hoạch và Đầu tư tiến hành.

Song song với việc đó, Bộ Công Thương cũng sẽ xây dựng chương trình hành động tổng thể, toàn diện, tập trung vào công tác cung cấp thông tin cho các cơ quan liên quan, doanh nghiệp và người dân, giúp mọi thành phần của nền kinh tế nắm bắt các nội dung, cam kết, trách nhiệm và đặc biệt là tập trung làm rõ các cơ hội, thách thức trong Hiệp định EVFTA.

Ngoài ra, chúng tôi sẽ xây dựng kế hoạch tổ chức thực thi, luật hóa Hiệp định EVFTA cho phù hợp các cam kết đã ký và xây dựng các cơ chế, mô hình liên kết để quản lý nhà nước gắn với doanh nghiệp, người dân nhằm tạo thuận lợi cho quá trình thực thi, điều chỉnh chính sách, đảm bảo mang lại hiệu quả cho nền kinh tế.

Xin Bộ trưởng cho biết Việt Nam cần tận dụng những lợi thế gì của các hiệp định FTA để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong thời gian tới?

Hiện nay, Việt Nam đã triển khai 12 Hiệp định FTA gồm FTA nội khối giữa 10 nước ASEAN; 7 Hiệp định FTA chúng ta cùng ASEAN ký kết với các đối tác Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Ôt-xtrây-lia - Niu Di-lân và Hồng Công; 4 Hiệp định FTA song phương với Nhật Bản, Chi lê, Hàn Quốc và Liên minh Kinh tế Á-Âu; và gần đây nhất là Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP). Trong số này, phần lớn hàng hóa của ta đã được hưởng thuế suất 0% khi xuất khẩu sang ASEAN (trên 95% biểu thuế), Trung Quốc (hơn 90% biểu thuế), Hàn Quốc (hơn 75% biểu thuế). Các nước còn lại vẫn đang tiếp tục cắt giảm thuế theo cam kết. Đây chính là lợi thế mà doanh nghiệp của ta cần tận dụng khi xuất khẩu sang các thị trường này. 

Sắp tới, việc thực thi Hiệp định FTA với EU, cùng với việc Hiệp định CPTPP vừa có hiệu lực và ký kết một số Hiệp định khác trong tương lai như RCEP, dự kiến sẽ mang lại những lợi thế nhất định, tạo cơ sở cho Việt Nam tăng trưởng kinh tế như: 

Thứ nhất, các Hiệp định này sẽ giúp ta thực hiện chủ trương đa dạng hóa quan hệ kinh tế - thương mại, đặc biệt là đa dạng hóa thị trường xuất nhập khẩu, tránh phụ thuộc quá mức vào một khu vực cụ thể. Đẩy mạnh xuất khẩu cũng sẽ góp phần tạo việc làm, hỗ trợ tiến trình tái cơ cấu nền kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng.

Thứ hai, việc kết nối thông qua các Hiệp định này sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam phát huy hiệu quả kinh tế theo quy mô để tăng năng suất và giảm chi phí sản xuất, dẫn tới giá cả hàng hóa cạnh tranh hơn. Liên kết chuỗi giữa các doanh nghiệp Việt Nam với các doanh nghiệp ASEAN, EU, các nước CPTPP v.v. cũng sẽ được hình thành thông qua phân công lao động, trao đổi hàng hóa, dịch vụ trung gian, từ đó tạo ra nhiều cơ hội kinh doanh hơn cho doanh nghiệp Việt Nam. Tiến trình này sẽ hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam cùng phát triển, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ trong khu vực cũng như hướng tới các thị trường phát triển hơn như EU, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ca-na-đa v.v…

Cuối cùng, việc đàm phán thành công và ký kết FTA với các đối tác lớn cũng sẽ giúp nâng cao hình ảnh của Việt Nam trên trường quốc tế, tạo thế và lực mới, phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế lâu dài của đất nước.

Đề nghị Bộ trưởng cho biết công tác công tác quản lý thị trường trong thời gian tới sẽ được triển khai như thế nào để thực thi hiệu quả Hiệp định EVFTA? 

Trước tình hình mới, công tác quản lý thị trường sẽ tập trung vào thực hiện các nhiệm vụ liên quan đến chống sản xuất, kinh doanh hàng giả, vi phạm sở hữu trí tuệ, trong đó đặc biệt chú trọng quản lý về thương mại điện tử.  

Theo đó, lực lượng quản lý thị trường sẽ tăng cường phối hợp với các hiệp hội, doanh nghiệp chủ thể quyền trong việc chia sẻ, cung cấp thông tin cũng như hỗ trợ nhận biết và xác nhận hàng hóa vi phạm trong quá trình giám sát thị trường, phát hiện và ngăn chặn, xử lý kịp thời các vi phạm về hàng giả, xâm phạm quyền SHTT. 

Ngoài ra, việc triển khai các chuyên đề trọng điểm, trong đó tập trung vào các kênh phân phối phổ biến hiện nay như khu các khu vực đầu mối tập kết, phân phối hàng giả, khu vực làng nghề, website thương mại điện tử, mạng xã hội… cũng sẽ được đẩy mạnh. Đi cùng với đó là việc tập trung nguồn lực để triển khai kiểm tra các mặt hàng trọng điểm như thực phẩm, dược phẩm, mỹ phẩm, hàng tiêu dùng, phân bón, vật tư nông nghiệp…

Bên cạnh đó, công tác phối hợp với các lực lượng chức năng như công an, hải quan và các ngành liên quan đến việc phòng chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả cũng sẽ được tăng cường trong thời gian tới.

Trong thời gian qua, một số mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam bị nước ngoài điều tra chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại, gian lận xuất xứ. Ông đánh giá thế nào về vấn đề này, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam tham gia hàng loạt các FTA thế hệ mới?

Trong thời gian qua, có hiện tượng khi bị áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại, các doanh nghiệp sản xuất chịu ảnh hưởng tìm cách khắc phục bằng việc chuyển sản xuất ra khỏi nước/nền kinh tế bị áp dụng biện pháp. Do có chính sách thuận lợi đối với đầu tư nước ngoài, Việt Nam là một trong những lựa chọn của các doanh nghiệp đó khi quyết định dịch chuyển sản xuất. Tuy nhiên, sau khi tiếp nhận năng lực sản xuất mới, xuất khẩu từ Việt Nam tăng nhanh khiến Việt Nam dễ trở thành đối tượng theo dõi, điều tra áp dụng các biện pháp PVTM bổ sung của nước nhập khẩu.

Nguyên nhân chủ yếu của vấn đề này là do các đối tác nhập khẩu nghi ngờ hàng hóa chưa đáp ứng điều kiện “chuyển đổi đáng kể” tại Việt Nam. Đặc biệt, các nghi ngờ về hàng hóa của Việt Nam “chuyển đổi đáng kể” tại Việt Nam chủ yếu tập trung vào các mặt hàng đang bị áp thuế phòng vệ thương mại được xuất khẩu với số lượng lớn, gia tăng đột biến sang các nước hoặc các mặt hàng bị nghi ngờ về năng lực sản xuất của Việt Nam.

Trong giai đoạn 2000 – 2016, đã có 15 vụ việc điều tra lẩn tránh thuế phòng vệ thương mại với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam, trung bình 01 vụ/năm. Tuy nhiên, trong các năm 2017 và 2018, mỗi năm đã có 03 vụ việc được tiến hành khởi xướng điều tra. Dự kiến xu hướng này sẽ tiếp tục gia tăng khi Việt Nam do đã có những dấu hiệu về dịch chuyển đầu tư cũng như phạm vi, số lượng sản phẩm bị áp dụng biện pháp PVTM hiện nay đang gia tăng.

Nếu ta không có các biện pháp tích cực để xử lý vấn đề lẩn tránh bất hợp pháp biện pháp phòng vệ thương mại, đặc biệt thông qua gian lận xuất xứ, thì có thể ảnh hưởng đến các doanh nghiệp, ngành hàng cụ thể, mà lâu dài còn tác động tiêu cực tới sức cạnh tranh của cả nền kinh tế nước ta đặc biệt trong bối cảnh tham gia hàng loạt FTA có yêu cầu cao về xuất xứ. Đặc biệt, trong bối cảnh xu thế bảo hộ đang gia tăng, đặc biệt đối với nhiều nhóm sản phẩm như thép, nhôm, nông sản, thủy sản, v.v., để giảm thiểu khả năng bị áp dụng biện pháp PVTM cần có một chiến lược tổng thể, dài hạn trong việc phát triển chuỗi sản xuất, nâng cao giá trị gia tăng cho hàng xuất khẩu của Việt Nam.

Việc tham gia các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới cũng sẽ có tác động tới ngành sản xuất nội địa do phải cạnh tranh với hàng nhập khẩu, Bộ Công Thương có giải pháp gì đối với vấn đề này?

Trong thời gian qua, nhằm bảo vệ các ngành sản xuất trong nước, chống lại hiện tượng hàng hóa nhập khẩu cạnh tranh không lành mạnh/hàng hóa nhập khẩu quá mức gây thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước, Bộ Công Thương đã triển khai các biện pháp phòng vệ thương mại (PVTM) theo đúng quy định của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) và pháp luật của Việt  Nam. Đến nay, Việt Nam đã và đang điều tra 07 vụ việc chống bán phá giá (áp dụng 03 biện pháp, 04 vụ việc đang điều tra), điều tra 06 vụ việc tự vệ (áp dụng 05 biện pháp đối với các sản phẩm: phân bón, mì chính, tôn màu, phôi thép và thép dài, dầu nành). Bên cạnh đó, Bộ cũng đã ban hành Chương trình tổng thể về sử dụng và ứng phó với các biện pháp phòng vệ thương mại nhằm hỗ trợ phát triển một số ngành công nghiệp Việt Nam giai đoạn 2018-2020, xét đến 2025. 

Các biện pháp PVTM đã và đang áp dụng góp phần bảo vệ công ăn việc làm của trên 100.000 người lao động trong các lĩnh vực nói trên, khuyến khích sản xuất trong nước phát triển và hỗ trợ cân bằng cán cân thanh toán quốc tế. Theo tính toán, những ngành sản xuất đang được bảo vệ bởi các biện pháp PVTM ước tính đóng góp khoảng 6,3% GDP của cả nước. Qua theo dõi tác động của các biện pháp PVTM, Bộ Công Thương nhận thấy việc tăng trưởng nhập khẩu ồ ạt với những sản phẩm này đã giảm đi đáng kể. Nhờ công cụ PVTM, nhiều doanh nghiệp thuộc một số ngành kinh tế đã cải thiện đáng kể tình hình sản xuất kinh doanh, thoát khỏi thua lỗ và từng bước ổn định sản xuất.

Các biện pháp PVTM cũng góp phần ổn định giá đầu vào cho một số ngành sản xuất trong nước. Cụ thể, như đối với phân bón DAP, khi có sản xuất trong nước để tạo đối trọng, giá mặt hàng này đã thấp hơn thời kỳ phụ thuộc hoàn toàn vào nhập khẩu trước đó. Chính vì vậy, việc áp dụng công cụ PVTM để bảo vệ các ngành sản xuất liên quan đến nông nghiệp, xây dựng... vừa là để bảo vệ sản xuất và việc làm trong nước đồng thời giảm mức độ phụ thuộc vào hàng hóa nhập khẩu.

Bên cạnh đó, Bộ Công Thương cũng theo dõi sát diễn biến giá cũng như tình hình nhập khẩu và rà soát định kỳ để điều chỉnh biện pháp PVTM cho phù hợp thực tiễn, tránh hiện tượng hàng hóa tăng giá do biện pháp PVTM hay giảm động lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước. Thực tế cho thấy nhiều doanh nghiệp sản xuất trong nước đã tăng cường xuất khẩu sau khi biện pháp PVTM được áp dụng, cho thấy năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp vẫn được đảm bảo. Như vậy, các biện pháp phòng vệ thương mại kịp thời do Bộ Công Thương áp dụng đã góp phần ngăn chặn những tác động tiêu cực của hàng nhập khẩu, cạnh tranh không lành mạnh với hàng hóa trong nước và cải thiện năng lực cạnh tranh của một số ngành sản xuất trong nước.

Trong bối cảnh các FTA thế hệ mới có những yêu cầu chặt chẽ hơn trong quá trình điều tra, áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại, Bộ Công Thương sẽ nghiên cứu, ban hành các văn bản hướng dẫn để thực thi các cam kết, nghĩa vụ này. Mặt khác, Bộ Công Thương cũng sẽ tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các Hiệp hội ngành hàng theo dõi các mặt hàng nhập khẩu có dấu hiệu gây thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước để kịp thời tham vấn, điều tra áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại phù hợp (như sợi, đường lỏng, que hàn, v.v).

Việt Nam đã tham gia hội nhập sâu rộng với thị trường thế giới với nhiều FTA đã được ký kết. Đề nghị Bộ trưởng cho biết Bộ Công Thương sẽ đưa ra những giải pháp gì trong thời gian tới để nâng cao hiệu quả khai thác các FTA nói chung và Hiệp định EVFTA nói riêng cho doanh nghiệp Việt Nam?

Chúng ta đang tiếp tục bước vào các giai đoạn hội nhập sâu rộng, sẽ tiếp tục thực thi nhiều cam kết có chiều sâu với mức độ cao hơn trước. Cùng với các cơ hội thì việc thực thi các FTA, đặc biệt là các FTA thế hệ mới cũng đặt ra không ít thách thức cho doanh nghiệp và nền kinh tế Việt Nam như sức ép cạnh tranh, xu hướng bảo hộ sản xuất trong nước của các nước nhập khẩu, các quy định về phòng vệ thương mại, TBT, SPS, yêu cầu về tiêu chuẩn môi trường, chất lượng sản phẩm, các quy tắc xuất xứ,.. Để tận dụng tốt được các cơ hội mang lại từ quá trình hội nhập này, Bộ Công Thương đã và đang tham mưu với Chính phủ và chủ động cùng các Bộ ngành, địa phương, hiệp hội doanh nghiệp tập trung triển khai các nhóm giải pháp chủ yếu như sau:

- Tích cực thúc đẩy việc triển khai các công tác chuẩn bị cho việc phê chuẩn Hiệp định FTA Việt Nam - EU (EVFTA) và Hiệp định Đầu tư FTA Việt Nam - EU (EVIPA) đã được ký kết vào ngày 30 tháng 6 năm 2019. Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Công Thương hiện đang phối hợp với các Bộ, ngành xây dựng bộ hồ sơ trình Quốc hội phê chuẩn Hiệp định EVFTA. Đối với Hiệp định EVIPA, công việc này sẽ do Bộ Kế hoạch và Đầu tư thực hiện.

- Tiếp tục rà soát và sửa đổi hệ thống pháp luật để thực thi cam kết trong các FTA, đặc biệt là các FTA thế hệ mới như EVFTA. Trong thời gian tới, cần tiếp tục làm sao đồng bộ hóa khung khổ pháp luật, tức là bổ sung, sửa đổi các quy định hiện hành theo hướng đưa toàn bộ hệ thống pháp luật kinh tế của ta ngày càng phù hợp hơn với triết lý "mở" của hội nhập, từ đó đem lại tác động cùng chiều và giúp ta gia tăng năng lực để nắm bắt các cơ hội do hội nhập đem lại.

- Tiếp tục triển khai đồng bộ, hiệu quả các hoạt động truyên truyền phổ biến thông tin tới cộng đồng doanh nghiệp, hiệp hội ngành hàng dưới nhiều hình thức khác nhau như Hội nghị, hội thảo, tập huấn, cổng thông tin điện tử, mạng xã hội, báo chí, v.v… Nội dung thông tin tuyên truyền cần sâu hơn và thực chất hơn nữa, không chỉ tập trung vào các cam kết trong các lĩnh vực truyền thống như cắt giảm thuế quan, quy tắc xuất xứ, dịch vụ và đầu tư, v.v.. mà cả cam kết về các biện pháp phi thuế quan, phòng vệ thương mại, v.v.. vốn đã và đang trở thành các rào cảo phức tạp đối với các doanh nghiệp khi muốn tiếp cận thị trường của nhiều nước trong các nước FTA nói chung và EU nói riêng. Trong đó, sẽ chú trọng phối hợp với các Hiệp hội, ngành hàng và địa phương để tập huấn quy tắc xuất xứ theo nhóm hàng hoặc theo thế mạnh xuất khẩu của từng địa phương.

- Tiếp tục đơn giản hóa, hiện đại hóa hoạt động cấp Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa (C/O): tổ chức thực hiện và theo dõi triển khai việc phân luồng doanh nghiệp trong quy trình cấp C/O ưu đãi; đẩy mạnh cấp C/O qua Internet.

- Tăng cường các biện pháp chống gian lận xuất xứ để bảo vệ các ngành hàng xuất khẩu của Việt Nam trước rủi ro của những vụ kiện chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại; Tăng cường công tác hậu kiểm tại tổ chức cấp C/O và các doanh nghiệp đề nghị cấp C/O. Chủ động phối hợp với cơ quan có thẩm quyền của nước nhập khẩu trong trường hợp có yêu cầu xác minh xuất xứ nhằm phát hiện và xử lý nghiêm các trường hợp mượn xuất xứ Việt Nam để tránh việc giả mạo xuất xứ.

- Chỉ đạo hệ thống Thương vụ Việt Nam tại nước ngoài củng cố, tăng cường công tác thông tin, cung cấp cho doanh nghiệp các phân tích, dự báo tình hình thị trường cũng như luật pháp, chính sách và tập quán buôn bán đặc thù của từng khu vực thị trường.

Xin cảm ơn Bộ trưởng!

Hán Hiển

Thích và chia sẻ bài viết:

tin liên quan

video hot

Về đầu trang