Quản trị tiên tiến - giải pháp thúc đẩy nâng năng suất, chất lượng doanh nghiệp Việt
(VietQ.vn) - Việc áp dụng các mô hình quản trị tiên tiến, tiêu chuẩn quốc tế gắn với chuyển đổi số và đổi mới công nghệ đang mang lại những cải thiện rõ rệt về năng suất, chất lượng cho nhiều doanh nghiệp Việt Nam.
Sự kiện: Chuyên đề: NÂNG CAO NĂNG SUẤT CHẤT LƯỢNG
Đồng hành cùng doanh nghiệp nâng cao năng suất, chất lượng: Nền tảng cho phát triển bền vững
Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ trong chống gian lận thương mại, hàng giả
Đổi mới sáng tạo - điểm nhấn nổi bật trong bức tranh khoa học công nghệ năm 2025
Lĩnh vực khoa học công nghệ năm 2025: Đánh giá kết quả và định hướng phát triển
Theo chuyên gia từ Ủy ban Tiêu chuẩn Đo lường Chất lương Quốc gia, thời gian qua, nhiều mô hình như Lean, quản trị tiên tiến, ESG hay các tiêu chuẩn quốc tế đã được triển khai tại doanh nghiệp sản xuất lớn, doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ và cho thấy hiệu quả rõ rệt. Các mô hình này giúp rút ngắn thời gian lưu kho, giảm lãng phí, nâng cao độ chính xác trong vận hành và cải thiện năng suất lao động. Không chỉ khối sản xuất, nhiều doanh nghiệp dịch vụ, hệ thống bán lẻ quy mô lớn cũng đẩy mạnh quản trị chất lượng, tối ưu quy trình thông qua ứng dụng công nghệ số, qua đó tiết giảm chi phí và nâng cao hiệu quả hoạt động. Trong lĩnh vực nông nghiệp, nhiều hợp tác xã và doanh nghiệp đã được hỗ trợ áp dụng hệ thống quản lý chất lượng, giúp sản phẩm đáp ứng tiêu chuẩn cao hơn để tham gia chuỗi cung ứng hiện đại.
Đặt trong bức tranh tổng thể của nền kinh tế, ông Nguyễn Tùng Lâm - Viện trưởng Viện Năng suất Việt Nam nhấn mạnh, để đạt mục tiêu tăng trưởng GDP hai con số từ năm 2026, động lực quan trọng nhất phải đến từ doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp tăng năng suất lao động, tạo ra nhiều giá trị hơn trên cùng nguồn lực, đóng góp cho tăng trưởng kinh tế sẽ lớn hơn. “Nâng cao năng suất không còn là lựa chọn mà là yêu cầu sống còn. Doanh nghiệp cần tiếp tục mở rộng ứng dụng các mô hình quản trị tiên tiến, đồng thời chú trọng đào tạo đội ngũ chuyên gia về năng suất và quản trị để duy trì kết quả cải tiến bền vững”, ông Lâm cho biết.
Ông Nguyễn Tùng Lâm - Viện trưởng Viện Năng suất Việt Nam.
Viện Năng suất Việt Nam có cơ hội làm việc với nhiều doanh nghiệp hướng tới mục tiêu nâng cao năng suất và đảm bảo chất lượng dịch vụ cũng như hàng hóa mà doanh nghiệp sản xuất. Hiện nay, hầu hết doanh nghiệp đều nhận thức được tầm quan trọng của việc tăng năng suất. Tuy nhiên, công việc đo lường và đánh giá hiệu suất thực tế vẫn chưa có phương pháp thống nhất. Vì vậy, cách tiếp cận của các doanh nghiệp Việt Nam thường được giới hạn ở việc xem năng suất theo đơn vị thời gian. Thực tế, cách tiếp cận này không toàn diện. Năng suất cần được hiểu sâu hơn khía cạnh giá trị gia tăng, tức là độ sáng tạo và giá trị mà sản phẩm hoặc dịch vụ mang lại để chi phí đầu vào.
Theo ông Nguyễn Tùng Lâm, quản lý chất lượng của doanh nghiệp Việt Nam đã trải qua một hành trình dài, từ quản lý theo sản phẩm, theo quá trình đến cải tiến liên tục và quản trị hiện đại. Xu hướng hiện nay là đặt yếu tố con người – những người trực tiếp vận hành và duy trì hệ thống vào vị trí trung tâm, đồng thời tích hợp mạnh mẽ các công nghệ mới như dữ liệu lớn, chuyển đổi số và trí tuệ nhân tạo. Nhờ sự đồng hành của các chương trình quốc gia như Chương trình 712 (Chương trình Nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm Việt Nam đến 2020) và tiếp đó là Chương trinh 1322 (Chương trình quốc gia hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, hàng hóa giai đoạn 2021 - 2030), doanh nghiệp đã tiếp cận bài bản hơn với các xu hướng quản trị tiên tiến, nhận thức về năng suất chất lượng được cải thiện rõ rệt.
Tuy nhiên, thực tế cũng cho thấy không ít doanh nghiệp vẫn “ngại thay đổi”, thiếu nguồn lực tài chính, thiếu nhân sự am hiểu các mô hình quản trị hiện đại và chưa coi năng suất là nền tảng cho phát triển dài hạn. Khoảng cách giữa nhóm doanh nghiệp tiên phong và nhóm chưa sẵn sàng vì thế ngày càng lớn, đặt ra thách thức không nhỏ cho giai đoạn triển khai tiếp theo của các chính sách nâng cao năng suất quốc gia.
Bên cạnh việc áp dụng tiêu chuẩn và mô hình quản trị, khoa học công nghệ và chuyển đổi số đang đóng vai trò ngày càng quan trọng trong việc nâng cao năng suất lao động, đặc biệt với doanh nghiệp nhỏ và vừa. Dù Chính phủ đã ban hành Chương trình Chuyển đổi số quốc gia với mục tiêu kinh tế số đạt 20% GDP vào năm 2025 và 30% vào năm 2030, mức độ chuyển đổi số của doanh nghiệp vẫn còn khiêm tốn.
Khảo sát toàn quốc do Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam phối hợp với Vụ Kinh tế và Xã hội số (Bộ Khoa học và Công nghệ) thực hiện từ ngày 15/5 đến 9/6/2025 cho thấy, 69% doanh nghiệp mới dừng ở mức ứng dụng cơ bản như email, phần mềm kế toán; 16% triển khai ERP, CRM, IoT ở mức trung bình; chỉ 10% đã số hóa toàn diện và tích hợp AI, trong khi 5% chưa bắt đầu chuyển đổi số. Những con số này phản ánh phần lớn doanh nghiệp mới ở giai đoạn tiếp cận công cụ, tỷ lệ ứng dụng hệ thống tích hợp và khai thác dữ liệu còn thấp, đòi hỏi các chính sách hỗ trợ mạnh mẽ và thực chất hơn.
Ở góc độ doanh nghiệp công nghệ, bà Mai Thị Thanh Oanh, Phó Tổng Giám đốc Công ty TNHH Cốc Cốc, cho rằng khó khăn lớn nhất với các đơn vị nghiên cứu và phát triển công nghệ trong nước vẫn là nguồn lực, cả về tài chính, nhân lực chất lượng cao lẫn hệ sinh thái hỗ trợ. Phát triển và vận hành các sản phẩm công nghệ cốt lõi đòi hỏi đầu tư dài hạn, trong khi không phải doanh nghiệp nào cũng đủ “sức bền” để theo đuổi đến cùng.
Thực tiễn tại nhiều doanh nghiệp cho thấy, đổi mới công nghệ đang mang lại hiệu quả rõ rệt về năng suất và khả năng cạnh tranh. Công ty CP Xi măng Bỉm Sơn (Vicem Bỉm Sơn) là một ví dụ điển hình trong ngành công nghiệp nặng. Từ năm 2024, doanh nghiệp đã triển khai nâng cấp hệ thống nghiền xi măng thế hệ mới, thay thế các thiết bị tiêu hao năng lượng lớn bằng công nghệ tiết kiệm điện, đồng thời đưa vào vận hành hệ thống tối ưu hóa lò nung bằng trí tuệ nhân tạo.
Việc ứng dụng AI giúp kiểm soát nhiệt độ lò nung chính xác hơn, giảm tiêu hao nhiệt và hạn chế thất thoát clinker. Nhờ đó, năng suất dây chuyền tăng 8 – 10%, mức tiêu thụ điện giảm 4 – 6% trên mỗi tấn sản phẩm và lượng phát thải CO₂ giảm đáng kể. Những cải tiến này không chỉ giúp Vicem Bỉm Sơn duy trì thị phần nội địa mà còn mở rộng cung ứng cho các dự án hạ tầng lớn tại Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Trị và tiếp tục xuất khẩu sang Bangladesh, Philippines. Theo đại diện doanh nghiệp, trong bối cảnh ngành xi măng dư cung và cạnh tranh gay gắt, đổi mới công nghệ là yếu tố quyết định để tăng sức cạnh tranh và đáp ứng các tiêu chuẩn xanh ngày càng khắt khe của thị trường.
Nếu công nghiệp nặng ghi nhận sự bứt phá nhờ công nghệ, thì trong nông nghiệp công nghệ cao, Công ty CP Thương mại Sao Khuê lại nổi bật với chiến lược áp dụng công nghệ vào toàn bộ chuỗi giá trị gạo sạch. Doanh nghiệp đầu tư vùng nguyên liệu hàng trăm héc-ta được quản lý bằng phần mềm theo dõi sinh trưởng cây lúa, ứng dụng máy bay không người lái để phun dinh dưỡng chính xác, giúp giảm 20 – 25% lượng thuốc bảo vệ thực vật và chi phí đầu vào.
Hệ thống chế biến gạo tự động được giám sát và vận hành liên tục.
Ở khâu chế biến, nhà máy được trang bị dây chuyền xay – xát – đánh bóng – sàng lọc theo tiêu chuẩn Nhật Bản, cùng hệ thống phân loại hạt bằng công nghệ cảm biến màu. Nhờ tự động hóa gần như toàn bộ quy trình, tỷ lệ tấm được kiểm soát dưới 5%, chất lượng hạt gạo đồng đều và ổn định hơn. Song song đó, Sao Khuê triển khai hệ thống truy xuất nguồn gốc bằng mã QR cho toàn bộ sản phẩm, đáp ứng yêu cầu của các hệ thống bán lẻ hiện đại và đối tác xuất khẩu. Trong giai đoạn 2024 – 2025, doanh nghiệp đã đưa sản phẩm gạo sạch vào nhiều kênh phân phối lớn tại Hà Nội, Hải Phòng, Ninh Bình và thử nghiệm xuất khẩu một số dòng gạo đặc sản. Phó Giám đốc Công ty Nguyễn Công Dương cho biết, mục tiêu năm 2026 là tiếp tục nâng cấp dây chuyền đóng gói tự động, mở rộng vùng nguyên liệu hữu cơ và đạt chứng nhận GlobalGAP để thâm nhập sâu hơn vào các thị trường cao cấp.
Từ thực tiễn đó có thể thấy, nâng cao năng suất chất lượng gắn với đổi mới công nghệ và chuyển đổi số đang trở thành trụ cột quan trọng để doanh nghiệp Việt Nam nâng cao sức cạnh tranh và đóng góp vào tăng trưởng kinh tế. Vấn đề đặt ra là cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn, cơ chế hỗ trợ và chính sách đồng hành để thu hẹp khoảng cách giữa các nhóm doanh nghiệp, qua đó biến năng suất thực sự trở thành động lực bền vững cho phát triển trong giai đoạn tới.
Duy Trinh - Thành Long









