Hà Nam: Phấn đấu đến năm 2030 KHCN&ĐMST là động lực tăng cường sức mạnh tổng hợp
Cần có quy định hoàn chỉnh tại Luật KH&CN về đổi mới sáng tạo
Khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo - động lực quan trọng phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Đồng Tháp
Phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo cho doanh nghiệp chế biến, chế tạo
Theo Kế hoạch, mục tiêu đến năm 2030, khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo thực sự là động lực quan trọng để tăng cường sức mạnh tổng hợp trên các lĩnh vực kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh, nâng cao sức cạnh tranh nền kinh tế, thúc đẩy chuyển đổi số, bảo vệ môi trường sinh thái, thích nghi và ứng phó với tác động của biến đổi khí hậu, đảm bảo phát triển nhanh, bền vững.
Bên cạnh đó, xây dựng và phát triển nguồn nhân lực khoa học, công nghệ đủ khả năng tiếp thu, ứng dụng, làm chủ và phát triển công nghệ hiện đại; đủ sức tổ chức nghiên cứu và giải quyết các nhiệm vụ khoa học, công nghệ trọng điểm của tỉnh.
Cụ thể, nâng cao đóng góp của khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo cho tăng trưởng kinh tế thông qua năng suất các nhân tố tổng hợp là 20% (năm 2025), 30% (năm 2030), góp phần thực hiện mục tiêu tăng năng suất lao động bình quân trên 10,7%/năm (đến năm 2025), trên 11%/năm (đến năm 2030).
Ảnh minh họa.
Số lượng sáng chế, giải pháp hữu ích đăng ký bảo hộ giai đoạn 2021-2025 tăng 2 lần, giai đoạn 2026 – 2030 tăng 2,5 lần so với giai đoạn 2016 – 2020; 100% bằng độc quyền sáng chế, giải pháp hữu ích của tỉnh được ứng dụng vào thực tiễn sản xuất và đời sống.
Giá trị giao dịch hàng hoá khoa học và công nghệ hàng năm tăng khoảng 10%. Tỉ trọng giao dịch tài sản trí tuệ, giao dịch công nghệ trong nước, trong đó có giao dịch công nghệ từ các đơn vị nghiên cứu, cơ sở giáo dục đại học và công nghệ nhập khẩu từ các nước phát triển đạt từ 7% đến 10%.
Phấn đấu đến năm 2030, tỉ trọng giá trị sản phẩm công nghiệp công nghệ cao trong các ngành chế biến, chế tạo trên địa bàn tỉnh đạt tối thiểu 25%; Số doanh nghiệp đạt tiêu chí doanh nghiệp khoa học và công nghệ vào năm 2030 tăng 3 lần so với năm 2020.
Theo kế hoạch, số doanh nghiệp có hoạt động đổi mới sáng tạo tăng bình quân 10%/năm, trong đó số doanh nghiệp thực hiện đổi mới công nghệ tăng trung bình 5%/năm; 100% sản phẩm, hàng hoá trên địa bàn tỉnh có khả năng gây mất an toàn, vệ sinh, ô nhiễm môi trường hoặc có yêu cầu đặc thù về quá trình sản xuất, tiềm ẩn khả năng gây mất an toàn được quản lí bằng quy chuẩn kĩ thuật quốc gia vào năm 2025.
Tỉnh Hà Nam cũng đề ra định hướng nhiệm vụ trọng tâm phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Theo đó, khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo tập trung phục vụ phát triển kinh tế – xã hội bền vững, bao trùm, bảo đảm quốc phòng, an ninh.
Trong đó, thúc đẩy tái cơ cấu nền kinh tế theo hướng tăng tỉ trọng giá trị sản phẩm công nghiệp công nghệ cao, các ngành có năng suất và giá trị gia tăng cao nhờ ứng dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại cùng với đẩy mạnh chuyển đổi số; thúc đẩy phát triển các ngành chế biến, chế tạo, một số ngành, lĩnh vực mũi nhọn dựa trên nền tảng công nghệ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; từng bước giảm tỉ trọng các ngành có năng suất lao động, giá trị gia tăng thấp, sử dụng công nghệ lạc hậu.
Đồng thời, tiếp thu, làm chủ, chuyển giao, ứng dụng rộng rãi công nghệ tiên tiến nhằm tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ và sức cạnh tranh của doanh nghiệp; chủ động xây dựng các giải pháp, công nghệ để phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, bảo vệ môi trường.
Đổi mới và hoàn thiện quản lí nhà nước về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo: Tăng cường các công cụ và chính sách đột phá nhằm khuyến khích, thúc đẩy ứng dụng công nghệ mới và đổi mới sáng tạo để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp; Nâng cao năng lực quản trị nhà nước đối với hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Đẩy mạnh và hoàn thiện cơ chế phân cấp, phân quyền trong quản lí nhà nước về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo bảo đảm tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả.
Đặc biệt, thời gian tới, tỉnh Hà Nam sẽ thúc đẩy nghiên cứu và ứng dụng rộng rãi công nghệ thông tin và truyền thông, Internet vạn vật, trí tuệ nhân tạo, chuỗi khối, thực tế ảo, xây dựng và hình thành các cơ sở dữ liệu để làm nòng cốt thúc đẩy chuyển đổi số, phát triển kinh tế số, chính phủ số, xã hội số, tạo ra những sản phẩm, thiết bị và các tiện ích thông minh ứng dụng trong sản xuất, dịch vụ, kinh doanh, quản lí xã hội và đời sống.
Đồng thời, nghiên cứu, phát triển nguồn thảo dược, các loại thuốc, thực phẩm bảo vệ sức khỏe theo quy định về an toàn thực phẩm; Tạo các giống cây trồng, vật nuôi, thủy sản có năng suất, chất lượng và giá trị gia tăng cao, phù hợp điều kiện sinh thái, biến đổi khí hậu ở địa phương.
An Hạ