Pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo: Yêu cầu đặt ra từ Nghị quyết 57-NQ/TW

author 14:14 30/09/2025

(VietQ.vn) - Có thể khẳng định, Nghị quyết 57-NQ/TW không chỉ là định hướng chiến lược về khoa học, công nghệ, ĐMST và chuyển đổi số, mà còn là cơ sở chính trị cao nhất đặt ra yêu cầu cấp bách cho việc hoàn thiện pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo (DNKNST). Những yêu cầu này bao gồm: đổi mới tư duy thể chế; xây dựng cơ chế thử nghiệm có kiểm soát; gắn kết Nhà nước – Doanh nghiệp – Đại học; và thiết lập hệ thống pháp luật đồng bộ, minh bạch, liên thông. Đây sẽ là nền tảng quan trọng để biến DNKNST thành động lực trung tâm, góp phần hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước đến năm 2045.

Ảnh minh họa.

1. Khái quát về pháp luật hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

1.1. Khái niệm về doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo và pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo (ĐMST) là chủ trương lớn của Đảng ta được xác định tại Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Tại Hội nghị toàn quốc về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo (ĐMST) và chuyển đổi số quốc gia tổ chức ngày 13/01/2025, Tổng Bí thư Tô Lâm đã khẳng định “phải coi khoa học, công nghệ, ĐMST và chuyển đổi số là động lực chủ chốt” với mục tiêu trở thành nước công nghiệp hiện đại vào năm 2030 và nước phát triển, thu nhập cao vào năm 2045. Đồng thời, ĐMST được xác định là nhiệm vụ chiến lược của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, thúc đẩy đột phá trong phát triển khoa học, công nghệ, ĐMST và chuyển đổi số, tạo nền tảng phát triển mạnh mẽ đất nước trong thời kỳ mới.

Trong những năm qua, hệ sinh thái khởi nghiệp ĐMST tại Việt Nam phát triển rất mạnh mẽ với hàng nghìn doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo thành công. Theo báo cáo "Chỉ số hệ sinh thái khởi nghiệp toàn cầu năm 2025" của StartupBlink, Việt Nam đứng thứ 5 ở Đông Nam Á, thứ 12 khu vực Châu Á - Thái Bình Dương và xếp thứ 55/100 toàn cầu, tăng một bậc trên bản đồ khởi nghiệp toàn cầu so với năm 2024.

Căn cứ Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/05/2025 của Quốc hội về cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển kinh tế tư nhân đã định nghĩa DNKNST “là doanh nghiệp được thành lập để thực hiện ý tưởng trên cơ sở khai thác tài sản trí tuệ, công nghệ, mô hình kinh doanh mới và có khả năng tăng trưởng nhanh” (khoản 1 Điều 3). Do vậy, DNKNST được xác định theo 03 tiêu chí: (1) Một là, tư cách pháp lý phải là doanh nghiệp được thành lập hợp pháp; (2) Hai là, về hoạt động, phải dựa trên khai thác tài sản trí tuệ, công nghệ hoặc mô hình kinh doanh mới; (3) Ba là, về triển vọng, phải có tính đột phá, tăng trưởng nhanh.

Song hành với sự phát triển của DNKNST, theo nghĩa rộng, pháp luật về hỗ trợ DNKNST có thể hiểu là hệ thống các quy tắc xử sự, quy định chung điều chỉnh các mối quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thành lập, tổ chức và hoạt động của DNKNST. Pháp luật về hỗ trợ DNKNST là công cụ quan trọng nhằm thể chế hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng, đồng thời cụ thể hóa các chính sách, cơ chế của Nhà nước trong việc ưu đãi, hỗ trợ và thúc đẩy DNKNST phát triển. Hệ thống pháp luật này tập trung quy định về quy trình, thủ tục và điều kiện hưởng ưu đãi, nội dung và phương thức hỗ trợ, cũng như các biện pháp khuyến khích DNKNST.

Bên cạnh đó, pháp luật cũng thiết lập cơ chế huy động nguồn lực từ nhà nước và xã hội để đầu tư, hỗ trợ cho hoạt động khởi nghiệp sáng tạo, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho quyền tự do kinh doanh, bảo vệ quyền sở hữu và xác định rõ quyền, nghĩa vụ của các cá nhân, tổ chức tham gia vào quá trình thành lập, đầu tư và hỗ trợ DNKNST. Ngoài ra, pháp luật còn quy định trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc bảo đảm môi trường pháp lý thuận lợi, thúc đẩy sự phát triển bền vững của DNKNST.

Theo cách tiếp cận này, pháp luật về hỗ trợ DNKNST được hiểu là tổng thể các quy phạm pháp luật quy định về các biện pháp hỗ trợ DNKNST, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong việc hỗ trợ DNKNST. Pháp luật về hỗ trợ DNKNST “phải phục vụ cho việc khai thác các tiềm lực vượt trội của DNKNST, đồng thời góp phần tạo hiệu ứng lan tỏa tinh thần khởi nghiệp sáng tạo, ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ sang cộng đồng doanh nghiệp nói chung”, khuyến khích DNKNST phát triển giải quyết các nhu cầu xã hội, giải quyết việc làm, tạo ra của cải vật chất đóng góp vào sự phát triển của nền kinh tế, thúc đẩy hội nhập.

1.2. Vai trò của pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Thứ nhất, định hình khuôn khổ pháp lý đầy đủ, đồng bộ hỗ trợ DNKNST. Pháp luật về hỗ trợ DNKNST có vai trò nền tảng trong việc định hình một khuôn khổ pháp lý đầy đủ, đồng bộ và linh hoạt nhằm hỗ trợ DNKNST phát triển bền vững. Một hệ thống pháp luật rõ ràng, minh bạch không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho DNKNST gia nhập thị trường mà còn đảm bảo tính ổn định và khả năng dự báo trong hoạt động kinh doanh, giúp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, thúc đẩy ĐMST, thu hút đầu tư và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.

Thứ hai, pháp luật hỗ trợ DNKNST đóng vai trò khuyến khích ĐMST. Thông qua các cơ chế ưu đãi về thuế, tín dụng, quỹ đầu tư mạo hiểm và bảo lãnh vay vốn, pháp luật giúp DNKNST giảm gánh nặng tài chính ban đầu và có thêm động lực triển khai ý tưởng mới. Đồng thời, các quy định về lĩnh vực khuyến khích khởi nghiệp còn định hướng nguồn lực xã hội vào các lĩnh vực ưu tiên, gắn với chiến lược quốc gia. Đặc thù khởi nghiệp sáng tạo là rủi ro cao, vì vậy pháp luật còn có “chia sẻ rủi ro” thông qua quỹ hỗ trợ và cơ chế thử nghiệm có kiểm soát (sandbox). Nhờ đó, DNKNST có “không gian an toàn” để thử nghiệm mô hình kinh doanh mới, còn Nhà nước có thể điều chỉnh chính sách kịp thời.

Thứ ba, pháp luật hỗ trợ DNKNST góp phần kiến tạo và củng cố hệ sinh thái khởi nghiệp. Các quy định pháp luật không chỉ hỗ trợ doanh nghiệp trực tiếp, mà còn điều chỉnh hoạt động của các tổ chức trung gian như vườn ươm, trung tâm hỗ trợ khởi nghiệp, nhà đầu tư thiên thần, quỹ đầu tư mạo hiểm, qua đó tạo mạng lưới liên kết chặt chẽ giữa doanh nghiệp – nhà khoa học – cơ sở đào tạo – nhà đầu tư – cơ quan quản lý nhà nước.

Thứ tư, pháp luật hỗ trợ DNKNST đóng vai trò thực hiện các mục tiêu chiến lược phát triển đất nước. Trong bối cảnh Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII về “Đột phá phát triển khoa học, công nghệ, ĐMST và chuyển đổi số quốc gia” (Nghị quyết 57) xác định khoa học, công nghệ, ĐMST và chuyển đổi số là đột phá chiến lược, thì việc hoàn thiện pháp luật hỗ trợ DNKNST là yêu cầu tất yếu để đưa chủ trương của Đảng vào cuộc sống, biến DNKNST thành lực lượng trung tâm của hệ thống ĐMST quốc gia.

Thứ năm, thúc đẩy hội nhập quốc tế và mở rộng thị trường cho DNKNST. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, DNKNST có xu hướng tiếp cận thị trường quốc tế ngay từ giai đoạn đầu, do đó pháp luật đóng vai trò là “chất xúc tác” khi có những quy định hỗ trợ doanh nghiệp trong quá trình hội nhập và mở rộng thị trường. Có thể kể tới những quy định pháp luật tạo điều kiện thuận lợi về thương mại điện tử, xuất nhập khẩu, đầu tư xuyên biên giới, giúp DNKNST dễ dàng tiếp cận khách hàng và đối tác quốc tế. Bên cạnh đó, pháp luật có thể thiết lập các cơ chế bảo hộ quyền lợi của DNKNST khi tham gia vào thị trường quốc tế, bao gồm các quy định về tranh chấp thương mại, quyền sở hữu trí tuệ và điều kiện hợp tác với các doanh nghiệp nước ngoài.

2. Quan điểm, chủ trương của Đảng về khởi nghiệp đổi mới sáng tạo ở Việt Nam

Trong quá trình đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xác định phát triển khoa học, công nghệ và ĐMST là một trong những động lực chủ yếu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Quan điểm này được thể hiện nhất quán trong nhiều nghị quyết, văn kiện quan trọng của Đảng.

Tại Đại hội XII của Đảng năm 2016, lần đầu tiên lĩnh vực khoa học và công nghệ được xác lập thành một mục riêng biệt trong Văn kiện Đại hội (mục VI – Phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ), thay vì lồng ghép chung với các lĩnh vực khác như giáo dục – đào tạo, văn hóa, môi trường như trong các kỳ Đại hội trước đó. Sự thay đổi này thể hiện nhận thức ngày càng rõ nét và vai trò ngày càng quan trọng của khoa học, công nghệ trong chiến lược phát triển đất nước và lần đầu tiên Đảng khẳng định: “Phát triển mạnh mẽ khoa học, công nghệ, làm cho khoa học, công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu”. Lần đầu tiên trong Văn kiện Đại hội XII của Đảng đã đề cập đến khái niệm đổi mới sáng tạo” và khẳng định ĐMST cùng với khoa học, công nghệ trở thành động lực quan trọng nhất để phát triển kinh tế, xã hội đất nước. Đại hội xác định: “Động lực quan trọng nhất và cũng là điều kiện để đổi mới mô hình tăng trưởng là đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ và ĐMST”, do đó cần phải: “Đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học – công nghệ và ĐMST để nâng cao năng suất lao động”.

Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang tác động sâu rộng đến mọi mặt của đời sống kinh tế – xã hội, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 về một số chủ trương, chính sách nhằm chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Nghị quyết xác định ba trụ cột cốt lõi gồm: khoa học, công nghệ, ĐMST và chuyển đổi số. Để phát triển năng lực ĐMST quốc gia, Đảng đã đề ra chủ trương “xây dựng và phát triển các trung tâm đổi mới sáng tạo quốc gia, tập trung vào các công nghệ cốt lõi của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”.

Trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, ĐMST được xác định là một nội dung của đột phá chiến lược thứ nhất trong ba đột phá chiến lược phát triển trong giai đoạn 2021 – 2025. Đại hội XIII của Đảng khẳng định và củng cố vai trò của ĐMST qua ba nhiệm vụ đột phá chiến lược: (1) “Hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển”, “thúc đẩy đổi mới sáng tạo”; (2) “Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao”; (3) “Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại cả về kinh tế và xã hội”. Cả ba trụ cột này đều đóng vai trò tạo lập cơ chế thúc đẩy ĐMST, đồng thời coi ĐMST là nền tảng và động lực quan trọng cho phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.

Đặc biệt, bước ngoặt được đánh dấu bằng Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII về “Đột phá phát triển khoa học, công nghệ, ĐMST và chuyển đổi số quốc gia”. Nghị quyết khẳng định: khoa học, công nghệ, ĐMST và chuyển đổi số là một đột phá chiến lược mới, cùng với hoàn thiện thể chế và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Trong đó, doanh nghiệp được xác định là trung tâm của hệ thống ĐMST quốc gia, là lực lượng chủ lực trong nghiên cứu, ứng dụng, thương mại hóa kết quả khoa học công nghệ, dẫn dắt quá trình chuyển đổi số. Nghị quyết đồng thời yêu cầu hoàn thiện pháp luật, chính sách để khuyến khích và hỗ trợ mạnh mẽ DNKNST để có khả năng cạnh tranh toàn cầu.

Có thể thấy, chuỗi chính sách từ NQ 52-NQ/TW (2019) đến Văn kiện Đại hội XIII (2021) và đột phá tại NQ 57-NQ/TW (2024) cho thấy sự chuyển dịch từ khuyến khích khởi nghiệp nói chung sang đặt doanh nghiệp – nhất là DNKNST – ở vị trí trung tâm của hệ thống ĐMST quốc gia. Điều này thể hiện bước phát triển mới trong tư duy của Đảng: không chỉ tạo môi trường cho doanh nghiệp ra đời, mà còn đặt mục tiêu biến DNKNST thành lực lượng tiên phong hiện thực hóa chiến lược phát triển đất nước dựa trên tri thức, khoa học công nghệ và ĐMST. Đây chính là cơ sở chính trị cao nhất để hoàn thiện pháp luật về hỗ trợ DNKNST trong giai đoạn hiện nay.

3. Nghị quyết 57-NQ/TW và những yêu cầu mới đối với pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, ĐMST và chuyển đổi số quốc gia đã đánh dấu bước ngoặt trong tư duy chiến lược về phát triển đất nước trong bối cảnh kỷ nguyên số. Nghị quyết này khẳng định khoa học, công nghệ, ĐMST và chuyển đổi số là đột phá phát triển chiến lược hàng đầu, bên cạnh hoàn thiện thể chế, phát triển nguồn nhân lực và xây dựng hạ tầng đồng bộ. Với quan điểm đó, Nghị quyết 57 đã định vị lại vai trò của ĐMST trong nền kinh tế quốc dân, coi doanh nghiệp – đặc biệt là DNKNST – là trung tâm của hệ thống ĐMST quốc gia. Điều này không chỉ mang tính tuyên ngôn chính trị mà còn đặt ra những yêu cầu cụ thể, cấp bách đối với việc hoàn thiện pháp luật nhằm bảo đảm sự phát triển bền vững của DNKNST trong giai đoạn tới.

Trước hết, Nghị quyết 57 yêu cầu đổi mới tư duy thể chế, coi thể chế pháp luật là “điều kiện tiên quyết, đi trước một bước” để khuyến khích và bảo vệ hoạt động sáng tạo. Đối với DNKNST, điều này có nghĩa là pháp luật phải vượt qua tư duy “không quản được thì cấm”, “quản lý chặt để tránh rủi ro”, thay bằng cách tiếp cận mở, linh hoạt, chấp nhận thử nghiệm có kiểm soát. Pháp luật hỗ trợ DNKNST trong thời gian tới cần thiết lập hành lang để doanh nghiệp có thể triển khai mô hình kinh doanh mới trong phạm vi, thời gian giới hạn dưới sự giám sát của Nhà nước, thay vì cấm đoán hoặc trì hoãn do thiếu quy định. Đây là sự chuyển dịch từ “quản lý theo tiền kiểm” sang “quản lý theo rủi ro”, phù hợp với thông lệ quốc tế về khuyến khích ĐMST.

Bên cạnh đó, Nghị quyết cũng nhấn mạnh vai trò then chốt của nhân lực trong hệ sinh thái ĐMST. Đội ngũ doanh nhân khởi nghiệp sáng tạo cần được trang bị năng lực số, kỹ năng sáng tạo và tinh thần toàn cầu. Do vậy, pháp luật không chỉ dừng ở việc ưu đãi về thuế hay tín dụng, mà cần thiết kế các chính sách khuyến khích đào tạo, thu hút và bảo vệ nhân tài khởi nghiệp. Đây là nội dung mới, đòi hỏi sự liên kết chặt chẽ giữa Luật Khoa học, Công nghệ và ĐMST năm 2025 (có hiệu lực 01/10/2025), Luật Giáo dục đại học… và các chương trình đào tạo khởi nghiệp, nhằm tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho DNKNST.

Nghị quyết 57 cũng đặt ra yêu cầu gắn kết chặt chẽ giữa Nhà nước – Doanh nghiệp – Đại học trong chuỗi nghiên cứu – ứng dụng – đào tạo”. Đối với DNKNST, đây là cơ hội đồng thời cũng là thách thức: pháp luật cần quy định rõ cơ chế hợp tác công – tư trong nghiên cứu, chuyển giao công nghệ và đào tạo nhân lực. Việc thể chế hóa cơ chế hợp tác “tam giác đổi mới” này sẽ giúp DNKNST tiếp cận dễ dàng hơn với nguồn lực khoa học công nghệ từ viện – trường, đồng thời thúc đẩy thương mại hóa kết quả nghiên cứu.

Cuối cùng, Nghị quyết số 57 đề ra các mục tiêu chiến lược đến năm 2045, trong đó có việc đưa Việt Nam trở thành một trong những trung tâm ĐMST của khu vực và thuộc nhóm 30 quốc gia dẫn đầu thế giới về ĐMST, chuyển đổi số. Để đạt được mục tiêu đó, pháp luật hỗ trợ DNKNST cần được hoàn thiện theo hướng: đồng bộ, minh bạch, có khả năng dự báo và thích ứng nhanh với thay đổi công nghệ. Điều này bao gồm việc xây dựng cơ chế liên thông giữa các đạo luật hiện hành (Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, Luật Khoa học, Công nghệ và ĐMST…), xác định rõ vai trò điều phối của Trung tâm ĐMST Quốc gia và mạng lưới trung tâm địa phương, cũng như khuyến khích sự tham gia của khu vực tư nhân trong hỗ trợ DNKNST.

Như vậy, có thể khẳng định rằng Nghị quyết 57-NQ/TW không chỉ là định hướng chiến lược về khoa học, công nghệ, ĐMST và chuyển đổi số, mà còn là cơ sở chính trị cao nhất đặt ra yêu cầu cấp bách cho việc hoàn thiện pháp luật về hỗ trợ DNKNST. Những yêu cầu này bao gồm: đổi mới tư duy thể chế; xây dựng cơ chế thử nghiệm có kiểm soát; gắn kết Nhà nước – Doanh nghiệp – Đại học; và thiết lập hệ thống pháp luật đồng bộ, minh bạch, liên thông. Đây sẽ là những nền tảng quan trọng để biến DNKNST thành động lực trung tâm, góp phần hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước đến năm 2045.

4. Định hướng hoàn thiện pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Thứ nhất, hoàn thiện khung pháp luật về DNKNST theo hướng toàn diện, đồng bộ.

Một trong những định hướng quan trọng là cần xây dựng khung pháp luật riêng cho DNKNST. Hiện nay, các quy định liên quan đang nằm rải rác trong các văn bản quy phạm pháp luật từ Luật (Luật Hỗ trợ DNNVV 2017, Luật Đầu tư 2020…), các Nghị định (Nghị định 80/2021/NĐ-CP hướng dẫn Luật Hỗ trợ DNNVV, Nghị định 31/2021/NĐ-CP hướng dẫn Luật Đầu tư, Nghị định số 38/2018/NĐ-CP quy định chi tiết về đầu tư cho DNNVV khởi nghiệp sáng tạo…) đến một số Quyết định, Đề án, chương trình hỗ trợ DNKNST. Sự phân tán này làm giảm tính ổn định và hiệu quả của chính sách. Do vậy, có thể xem xét ban hành Luật Hỗ trợ DNKNST riêng biệt, hoặc ít nhất sửa đổi, bổ sung Luật Hỗ trợ Doanh nghiệp nhỏ và vừa, các văn bản hướng dẫn để mở rộng phạm vi điều chỉnh, tách bạch DNKNST khỏi khuôn khổ DNNVV.

Pháp luật hỗ trợ DNKNST phải bảo đảm sự đồng bộ, liên thông với các lĩnh vực pháp luật khác. Cần rà soát, sửa đổi để loại bỏ chồng chéo, mâu thuẫn giữa các văn bản quy phạm pháp luật trên phạm vi toàn diện các lĩnh vực liên quan đến DNKNST. Tính liên thông này giúp DNKNST dễ dàng tiếp cận ưu đãi, giảm chi phí tuân thủ, đồng thời tạo ra sự minh bạch, ổn định trong môi trường pháp lý – yếu tố đặc biệt quan trọng để thu hút vốn đầu tư mạo hiểm quốc tế.

Thứ hai, hoàn thiện tiêu chí xác định và cơ chế lựa chọn DNKNST nhận hỗ trợ.

Một yêu cầu cấp bách là phải tái định nghĩa DNKNST trong pháp luật. Hiện nay, khái niệm DNKNST gắn với DNNVV là không còn phù hợp, việc lồng ghép DNKNST vào phạm vi điều chỉnh của Luật Hỗ trợ DNNVV dẫn đến cách tiếp cận có phần gượng ép, thiếu linh hoạt, và tạo ra những bất cập trong thực tiễn triển khai chính sách. Mặc dù Nghị định số 97/2025/NĐ-CP của Chính phủ quy định về cơ chế, chính sách ưu đãi đối với Trung tâm ĐMST Quốc gia đã bước đầu mở rộng phạm vi tiếp cận khi đưa ra khái niệm DNKNST với nội hàm bao quát hơn, không giới hạn trong khuôn khổ DNNVV, nhưng vẫn chưa đồng nhất và chưa có các văn bản hướng dẫn cụ thể.

Các tiêu chí xác định DNKNST hiện hành, như được quy định tại Điều 20 Nghị định 80/2021/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật hỗ trợ DNNVV, chủ yếu mang tính định tính và chưa đủ cụ thể để phân biệt rõ DNKNST với các loại hình doanh nghiệp khác. Các yếu tố như “mô hình kinh doanh mới”, “khai thác tài sản trí tuệ, công nghệ”, hay “có khả năng tăng trưởng nhanh” đều chưa được lượng hóa, định nghĩa rõ ràng trong văn bản pháp luật, dẫn đến sự tùy nghi trong quá trình xét chọn doanh nghiệp hỗ trợ. Đặc biệt, tiêu chí “tăng trưởng nhanh” – vốn là đặc tính cốt lõi của DNKNST – lại chỉ được đề cập một cách mơ hồ, chưa phản ánh đúng tính chất động và đột phá của loại hình doanh nghiệp này.

Tương tự, việc nhấn mạnh vào yếu tố “khai thác tài sản trí tuệ” cũng chưa bao quát được các trường hợp DNKNST theo hướng đổi mới mô hình kinh doanh, vận hành nền tảng số hay ứng dụng công nghệ mới nhưng chưa kịp bảo hộ tài sản trí tuệ. Do đó, pháp luật cần quy định cơ chế lựa chọn, phân loại DNKNST hưởng hỗ trợ trên cơ sở minh bạch, thống nhất toàn quốc, tránh tình trạng áp dụng tùy tiện ở địa phương.

Thứ ba, hoàn thiện chính sách tài chính, thuế và quỹ đầu tư mạo hiểm.

Rào cản lớn nhất đối với DNKNST hiện nay là khả năng tiếp cận vốn. Vì vậy, pháp luật cần hoàn thiện cơ chế tài chính và thuế theo hướng khuyến khích ĐMST. Cụ thể, có thể áp dụng các biện pháp miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp trong giai đoạn khởi nghiệp; cho phép khấu trừ chi phí nghiên cứu, phát triển và chuyển giao công nghệ để giảm gánh nặng tài chính; đồng thời thiết kế ưu đãi thuế cho nhà đầu tư thiên thần và quỹ đầu tư mạo hiểm nhằm khuyến khích họ tham gia hỗ trợ DNKNST. Ngoài ra, việc xây dựng cơ chế đồng đầu tư giữa Nhà nước và khu vực tư nhân, kết hợp với bảo lãnh tín dụng sẽ góp phần chia sẻ rủi ro, tạo niềm tin và thu hút dòng vốn lớn hơn vào lĩnh vực khởi nghiệp sáng tạo.

Thứ tư, nên sử dụng mô hình thí điểm trước khi ban hành luật.

Việt Nam có thể học tập kinh nghiệm của Trung Quốc khi sử dụng các địa phương thí điểm khi cân nhắc ban hành bất cứ chính sách pháp luật mới nào - là một đặc trưng có tính truyền thống trong quá trình xây dựng, ban hành pháp luật của Trung Quốc, thời gian thí điểm thậm chí có thể lên đến hơn cả thập kỷ. Vào đầu thế kỷ XXI, Trung Quốc đã triển khai chính sách thí điểm kinh tế tuần hoàn nhằm thúc đẩy khởi nghiệp, ĐMST. Chính sách thí điểm có tác động tích cực và đáng kể sự quan tâm của chính quyền đối với khoa học và công nghệ, đồng thời thúc đẩy sự tập trung kinh tế, ĐMST thông qua số liệu thống kê 284 thành phố cấp địa phương. Trung Quốc vận dụng năm cách thức lựa chọn các địa phương để triển khai thí điểm chính sách, bao gồm: (i) thí điểm để ứng phó với các thách thức thực tiễn; (ii) thí điểm nhằm thúc đẩy phát triển; (iii) thí điểm hướng tới ĐMST; (iv) thí điểm nhằm tạo động lực hành động; và (v) thí điểm phục vụ mục tiêu khái quát hóa theo đặc điểm vùng miền. Sự thành công trong thí điểm mô hình phát triển bền vững, ĐMST đã thúc đẩy Trung Quốc ban hành các luật và áp dụng rộng rãi trên phạm vi toàn quốc.

Ngoài ra, Việt Nam cần thí điểm cơ chế cho phép DNKNST thử nghiệm công nghệ mới dưới sự giám sát của Nhà nước, đồng thời miễn trừ trách nhiệm cho doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân trong trường hợp thử nghiệm công nghệ mới hoặc mô hình kinh doanh mới mà gặp thiệt hại về kinh tế do nguyên nhân khách quan. Kinh nghiệm từ Trung Quốc cho thấy, trước khi thiết lập cơ quan giám sát cấp trung ương là Ủy ban Giám sát Nhà nước, quốc gia này đã từng bước xây dựng hệ thống các ủy ban giám sát tại địa phương theo mô hình ba cấp gồm tỉnh, thành phố và huyện, nhằm tạo lập một cơ chế giám sát tích hợp, thống nhất. Bên cạnh đó, có thể áp dụng phương pháp khác biệt trong sự khác biệt hay còn gọi là phương pháp sai biệt kép (Difference in Differences, DID) và phương pháp chênh lệch ba chiều (Difference-in-Difference-in-Difference, DDD) để phân tích, đánh giá hiệu quả tác động của chính sách.

Thứ năm, phát triển nhân lực và nâng cao năng lực quản lý nhà nước.

Nghị quyết 57 nhấn mạnh nhân lực chất lượng cao là điều kiện quyết định thành công. Do đó, pháp luật hỗ trợ DNKNST cần đi đôi với chính sách đào tạo, thu hút nhân tài và phát triển nguồn nhân lực số. Cần ban hành quy định khuyến khích doanh nghiệp phối hợp với đại học, viện nghiên cứu để đào tạo nhân lực khởi nghiệp; đồng thời, xây dựng cơ chế thu hút nhân tài quốc tế, chuyên gia tham gia vào hệ sinh thái khởi nghiệp.

Song song, cần nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước trong kỷ nguyên mới. Pháp luật cần quy định cơ chế đào tạo, bồi dưỡng định kỳ cho cán bộ về công nghệ số, quản trị dữ liệu, an ninh mạng, kỹ năng hoạch định chính sách theo tư duy đổi mới. Ngoài ra, có thể thiết kế cơ chế luân chuyển cán bộ giữa khu vực công và tư để tạo sự hiểu biết lẫn nhau, qua đó xây dựng chính sách sát thực tiễn.

Thứ sáu, tăng cường cơ chế gắn kết Nhà nước – Doanh nghiệp – Đại học trong hệ sinh thái khởi nghiệp.

Nghị quyết 57 nhấn mạnh mô hình “tam giác đổi mới” giữa Nhà nước – Doanh nghiệp – Đại học. Để thể chế hóa, pháp luật cần bổ sung cơ chế hợp tác công – tư trong nghiên cứu, chuyển giao công nghệ và đào tạo nhân lực. Cần quy định rõ quyền lợi và nghĩa vụ của DNKNST khi tham gia liên kết với viện nghiên cứu, trường đại học; đồng thời có cơ chế khuyến khích doanh nghiệp tài trợ nghiên cứu, đặt hàng công nghệ, hoặc hỗ trợ khởi nghiệp cho sinh viên. Đây là giải pháp giúp khắc phục điểm yếu cố hữu là sự thiếu gắn kết giữa nghiên cứu khoa học và nhu cầu thực tiễn.

Thứ bảy, xác định rõ cơ quan đầu mối và tăng cường hiệu lực tổ chức thực thi.

Một trong những hạn chế hiện nay là thiếu cơ quan đầu mối thống nhất trong hỗ trợ DNKNST. Do đó, pháp luật cần xác định Trung tâm ĐMST Quốc gia là trung tâm điều phối quốc gia về ĐMST, có nhiệm vụ kết nối với mạng lưới các trung tâm ĐMST tại địa phương. Đồng thời, cần làm rõ trách nhiệm phối hợp giữa Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Tài chính và các bộ, ngành khác. Song song, cần thiết lập cơ chế một cửa điện tử hỗ trợ DNKNST, tích hợp thông tin, thủ tục, dịch vụ tư vấn và kết nối đầu tư trên nền tảng số quốc gia.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, NXB. Chính trị quốc gia sự thật, 2019, phần II (Đại hội X, XI, XII).

2. Hongshan Ai, Nazrul Islam, “Circular Economy, Open Innovation, and Green Innovation: Empirical Evidence From Prefecture-Level Cities in China”, IEEE Transactions on Engineering Management, Volume: 71, Feb 2024, tr. 5706

3. Alex Jingwei He, Yumeng Fan, Rui Su, “Unpack the black box of pilot sampling in policy experimentation: A qualitative comparative analysis of China's public hospital reform”, Governance, Volume37, Issue3, July 2024, tr. 803.

4. StartupBlink (2025), “Global Startup Ecosystem Index 2025”, p.230.

5. Cù Thị Thúy Lan (2023), “Cải cách cơ chế giám sát và vận hành quyền lực ở Trung Quốc”, Tạp chí Cộng sản, https://tapchicongsan.org.vn/en_US/web/guest/the-gioi-van-de-sukien//2018/838003/cai-cach-co-che-giam-sat-va-van-hanh-quyen-luco-trung quoc%C2%A0.aspx.

6. Phan Vũ (2021), “Một số định hướng chung trong hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo”, Trang thông tin hỗ trợ pháp lýcho doanh nghiệp. Nguồn: https://htpldn.moj.gov.vn/Pages/chi-tiettin.aspx?ItemID=1855&l=Nghiencuutraodoi.

ThS. Dương Hiểu Phong - Đại học Luật Hà Nội

Thích và chia sẻ bài viết:

tin liên quan

video hot

Về đầu trang