Thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu và dự báo triển vọng tăng trưởng trong năm 2025

author 05:53 17/11/2024

(VietQ.vn) - Dự báo về triển vọng xuất khẩu hàng hóa trong năm 2025, thị trường thế giới đã có những dấu hiệu tích cực, sức mua ổn định, tình hình hàng hóa sản xuất trong nước dồi dào, phong phú dự báo xuất nhập khẩu sẽ duy trì đà tăng trưởng tốt từ nay tới Quý I/2025.

Tính chung 10 tháng năm 2024, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa sơ bộ đạt 335,59 tỷ USD, tăng 14,9% so với cùng kỳ năm trước, là mức tăng trưởng khá cao so với một số nền kinh tế hàng đầu trong khu vực châu Á như: Trung Quốc tăng 4,3%; Hàn Quốc tăng 9,6%; Thái Lan tăng 3,9% (trong 9 tháng đầu năm 2024)...

Trong 10 tháng năm 2024, khu vực kinh tế trong nước đạt 93,97 tỷ USD, tăng 20,7%, chiếm 28,0% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 241,62 tỷ USD, tăng 12,8%, chiếm 72,0%.

Như vậy, tăng trưởng xuất khẩu của khu vực kinh tế trong nước cao hơn nhiều so với tăng trưởng của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Có 31 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 92,6% tổng kim ngạch xuất khẩu, trong đó có 7 mặt hàng xuất khẩu trên 10 tỷ USD, chiếm 66,5% (10 tháng năm 2023 có 33 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD; 07 mặt hàng xuất khẩu trên 10 tỷ USD).

Về triển vọng năm 2025, ông Trần Thanh Hải - Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) dự báo: Thị trường thế giới có dấu hiệu ổn định, lạm phát tại các thị trường giảm tại các thị trường lớn, nhu cầu và sức mua phục hồi; tình hình sản xuất trong nước ổn định, nguồn hàng dồi dào, phong phú; thu hút FDI đạt kết quả tốt; Các hiệp định thương mại tự do (FTA) phát huy tác dụng, giúp gia tăng kim ngạch ở các thị trường có FTA, các FTA mới đi vào thực hiện... Do đó dự báo xuất nhập khẩu sẽ duy trì đà tăng trưởng tốt từ nay tới Quý I/2025, tăng trưởng đều ở các nhóm hàng và thị trường.

Tuy nhiên, những thách thức là các "hàng rào kỹ thuật" mới cần nhận diện rõ, đó là các tiêu chuẩn, quy định về chất lượng, an toàn, môi trường, lao động hay nguy cơ bị áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại...

Đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa, để tận dụng các cơ hội đẩy mạnh xuất nhập khẩu và hạn chế các thách thức, ông Trần Thanh Hải cho rằng, các doanh nghiệp cần xây dựng định hướng, kế hoạch kinh doanh dài hạn, chú trọng đến cạnh tranh trong bối cảnh mở cửa thị trường; Đẩy mạnh xúc tiến thương mại, tận dụng các hỗ trợ của Nhà nước; Tìm hiểu, tận dụng các FTA để mở rộng thị trường cho hàng hóa xuất khẩu; Đầu tư nâng cao nhân lực, ứng dụng công nghệ số để nhanh chóng nâng cao năng lực cạnh tranh, tính chuyên nghiệp, tiến ra thị trường quốc tế. Đồng thời các doanh nghiệp cũng cần chủ động phương án dự phòng, khắc phục những sự cố, rủi ro, biến động trên thị trường; cảnh giác với các hành vi gian lận, lừa đảo trong thương mại quốc tế...

Dự báo xuất nhập khẩu sẽ duy trì đà tăng trưởng tốt từ nay tới Quý I/2025, tăng trưởng đều ở các nhóm hàng và thị trường. Ảnh minh họa

Trao đổi về những cơ hội và thách thức của nền kinh tế đối với doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam hiện nay, ThS. Nguyễn Anh Dương, Trưởng ban Nghiên cứu tổng hợp, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương (CIEM) cho biết: Kinh tế toàn cầu phục hồi, mạng lưới các FTA đã tạo thêm cơ hội để gia tăng xuất khẩu, gắn với đà phục hồi của chuỗi cung ứng ở châu Á. Tuy nhiên, bên cạnh đó là thách thức từ xu hướng phát triển bền vững, việc gia tăng các biện pháp thương mại tại nhiều thị trường...

Trong khi đó, quá trình chuyển đổi xanh còn tương đối chậm, ảnh hưởng đến khả năng thích ứng của doanh nghiệp với các quy định về phát triển bền vững ở một số thị trường chính. Việc tiếp cận vốn theo chuỗi giá trị chưa phổ biến ở Việt Nam, doanh nghiệp sản xuất vẫn dựa chủ yếu vào tín dụng của hệ thống ngân hàng thương mại, trong khi việc huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán còn khiêm tốn; khó tiếp cận vốn vay ngoại tệ để nhập khẩu đầu vào, nguyên phụ liệu phục vụ sản xuất xuất khẩu; Quy định pháp luật hiện hành mới chỉ tập trung vào một số hình thức như bao thanh toán, thư tín dụng,...

Do đó, theo ông Nguyễn Anh Dương, các doanh nghiệp cần chủ động tìm hiểu các quy định mới ở các thị trường và đề ra kế hoạch ứng phó; Nghiên cứu, triển khai các mô hình kinh doanh mới (kinh tế tuần hoàn, kinh tế số,...); Tăng cường chia sẻ kinh nghiệm thích ứng với các xu hướng, quy định mới (CBAM, EUDR, bảo vệ dữ liệu cá nhân,...); Đề xuất các hỗ trợ kỹ thuật phù hợp từ các đối tác (các cơ quan nhà nước khó có thể đưa ra đề xuất hỗ trợ cụ thể từ đối tác)...

Đối với Nhà nước, cần chủ động theo dõi, đánh giá các xu hướng, quy định mới để thông tin phù hợp cho cộng đồng doanh nghiệp; Hướng dẫn doanh nghiệp xây dựng chiến lược tận dụng hiệu quả các ưu đãi trong các FTA; Hỗ trợ phù hợp cho doanh nghiệp (không trái với cam kết quốc tế và được phép theo các điều ước quốc tế), xây dựng các chương trình, sáng kiến giúp doanh nghiệp tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu và khu vực. Đồng thời nghiên cứu các giải pháp điều chỉnh các quy định có tính thích ứng với các xu hướng mới (hài hòa hóa với các tiêu chuẩn quốc tế có cân nhắc tới năng lực thích ứng của doanh nghiệp trong nước); Tham gia xây dựng các luật chơi quốc tế phù hợp trong các lĩnh vực chuyển đổi số, chuyển đổi xanh...

Trong khi đó, từ góc độ hoạt động Logistics, ông Ngô Khắc Lễ, Phó Tổng Thư ký Hiệp hội Doanh nghiệp dịch vụ Logistics Việt Nam (VLA) khuyến nghị các doanh nghiệp xuất nhập khẩu cần sử dụng dịch vụ kho bãi linh hoạt, áp dụng các kho ngoại quan, kho chung (fulfillment center) để giảm chi phí lưu trữ và tăng tốc độ xử lý hàng hóa; Đảm bảo tính bền vững và thân thiện môi trường, áp dụng giải pháp logistics xanh, giảm lượng khí thải và tiêu thụ năng lượng trong quá trình vận chuyển.

Bên cạnh đó, ông Lễ cho rằng, các doanh nghiệp cần chuyển đổi sang công nghệ sản xuất xanh theo hướng tối ưu hoá sản xuất, áp dụng công nghệ tiên tiến giúp giảm phát thải khí nhà kính trong quá trình sản xuất, đáp ứng yêu cầu giảm phát thải; Tối ưu hóa lộ trình và phương thức vận tải thông qua kết hợp đa phương thức vận tải (đường biển, đường hàng không, đường bộ, đường sắt) để tối ưu chi phí và thời gian vận chuyển.

Mặt khác, trong hoạt động, các doanh nghiệp cần chú trọng quản lý rủi ro chuỗi cung ứng, thiết lập kế hoạch dự phòng nhằm giảm thiểu rủi ro khi gặp các sự cố bất ngờ như biến động giá dầu, thay đổi chính sách thuế, hoặc thiên tai. Nghiên cứu phương án tăng tỷ lệ thuê ngoài logistics để tăng tính chuyên môn hoá, giảm tỉ lệ hao hụt, tổn thất. Kết hợp với các doanh nghiệp trong sử dụng dịch vụ logistics và hợp tác với các đối tác trong chuỗi cung ứng để tận dụng lợi thế nhờ quy mô; tạo sức mạnh của mạng lưới chủ hàng (buyer’s power)...

Khánh Mai (t/h)

Thích và chia sẻ bài viết:

tin liên quan

video hot

Về đầu trang