Góp ý quy định cung ứng sản phẩm phái sinh giá cả hàng hóa của ngân hàng thương mại
(VietQ.vn) - Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đang lấy ý kiến về Dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung Thông tư 40/2016/TT-NHNN quy định hoạt động cung ứng sản phẩm phái sinh giá cả hàng hóa của ngân hàng thương mại (sau đây gọi tắt là Dự thảo).
Sản xuất công nghiệp gặp khó, doanh nghiệp cần đảm bảo tiêu chuẩn hàng hóa để đa dạng thị trường
Thúc đẩy tiêu dùng, nâng cao chất lượng hàng hóa nhằm tạo ra bệ đỡ tăng trưởng kinh tế
Bắc Kạn tiêu huỷ hơn 6000 đơn vị dầu gội đầu, kem đánh răng và nước xả vải giả mạo nhãn hiệu
Tập trung tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, người dân
Thông tư 40/2016/TT-NHNN và Dự thảo quy định về việc cung ứng sản phẩm phái sinh giá cả hàng hoá đối với khách hàng qua sở giao dịch hàng hoá (SGDHH) ở nước ngoài, hay hợp đồng nhận, thực hiện lệnh mua, bán hợp đồng tiêu chuẩn về phái sinh giá cả hàng hoá.
Tuy nhiên, theo phản ánh của doanh nghiệp, quy định này cần được xem xét ở một số điểm. Thứ nhất, quy định này trùng lặp, chồng chéo với các quy định tại Nghị định 158/2006/NĐ-CP, Nghị định 51/2018/NĐ-CP sửa đổi Nghị định 158/2006/NĐ-CP. Điều 22.1 Nghị định 158/2006/NĐ-CP quy định hoạt động nhận uỷ thác mua bán hàng hoá qua SGDHH cho khách hàng là một hoạt động kinh doanh của các thành viên kinh doanh thuộc SGDHH. Điều 1.4 Nghị định 51/2018/NĐ-CP (sửa đổi Điều 5 Nghị định 158/2006/NĐ-CP) quy định việc tham gia hoạt động mua bán hàng hoá qua SGDHH ở nước ngoài phải thông qua các SGDHH tại Việt Nam.
Tóm lại, hoạt động nhận uỷ thác mua bán hàng hoá qua SGDHH nước ngoài là một hoạt động kinh doanh của thành viên kinh doanh thuộc SGDHH, và phải được thực hiện qua SGDHH. Trong khi đó, Mục 2 Chương II Thông tư 40/2016/TT-NHNN và Dự thảo quy định về hợp đồng nhận, thực hiện lệnh mua, bán hợp đồng tiêu chuẩn về phái sinh giá cả hàng hoá của ngân hàng thương mại. Hoạt động cung ứng hợp đồng này, về bản chất là hoạt động nhận uỷ thác mua bán hàng hoá của thành viên kinh doanh như đề cập ở trên.
Thứ hai, quy định này không phù hợp, thiếu công bằng giữa các ngân hàng thương mại và các thành viên kinh doanh của SGDHH. Các thương nhân khi muốn tham gia vào hoạt động kinh doanh của SGDHH phải đáp ứng các điều kiện bắt buộc và thực hiện các yêu cầu trong quá trình hoạt động theo quy định của Luật Thương mại, Nghị định 158/2006/NĐ-CP, Nghị định 51/2018/NĐ-CP và quy định của SGDHH.
Ảnh minh hoạ
Cụ thể, phải đáp ứng các điều kiện bắt buộc về vốn điều lệ, cơ sở vật chất, giải pháp công nghệ và yêu cầu kỹ thuật; phải thực hiện các trình tự, thủ tục đăng ký tư cách thành viên; Phải nộp các loại phí, lệ phí, ký quỹ khi tham gia giao dịch; Các yêu cầu trong quá trình hoạt động: thiết lập hệ thống kiểm soát nội bộ, quản trị rủi ro và giám sát, ngăn ngừa xung đột lợi ích trong nội bộ và giao dịch; lưu trữ các loại chứng từ và tài khoản; Không trực tiếp giao dịch với các SGDHH nước ngoài, phải thông qua SGDHH tại Việt Nam; Đảm bảo thực hiện đầy đủ các chế độ báo cáo định kỳ, các nghĩa vụ công bố và chế độ thanh, kiểm tra, giám sát của SGDHH.
Trong khi đó, các ngân hàng thương mại gần như không phải tuân thủ quy định này, hay nói cách khác, đang ít chịu sự kiểm tra, giám sát hoạt động kinh doanh này từ pháp luật chuyên ngành. Theo ý kiến của các doanh nghiệp, các ngân hàng thương mại muốn tham gia cung cấp dịch vụ này cần tuân thủ quy định của Nghị định 158/2006/NĐ-CP, Nghị định 51/2018/NĐ-CP, cụ thể hoạt động dưới tư cách là thành viên kinh doanh của SGDHH hoặc thành lập SGDHH mới.
Thứ ba, các quy định trong Thông tư 40/2016/TT-NHNN và Dự thảo thiếu vắng cơ chế giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo giữa khách hàng với ngân hàng thương mại. Cơ chế giải quyết tranh chấp này thường được ban hành dưới dạng quy định, hướng dẫn của SGDHH như Rulebook về phương thức, cách thức thực hiện, phạm vi miễn trừ quyền và nghĩa vụ của các bên trong việc thành viên kinh doanh tiếp nhận, xử lý các khiếu nại, tố cáo của khách hàng trong quá trình cung cấp dịch vụ. Việc thiếu vắng cơ chế có thể dẫn tới sự lúng túng, khó đảm bảo quyền lợi của các bên liên quan khi giải quyết tranh chấp liên quan đến hoạt động giao dịch trên thị trường.
Từ những phân tích trên, doanh nghiệp đề nghị cơ quan soạn thảo cân nhắc bãi bỏ các nội dung liên quan đến hợp đồng nhận, thực hiện lệnh mua, bán hợp đồng tiêu chuẩn về phái sinh giá cả hàng hoá trong Thông tư 40/2016/TT-NHNN và Dự thảo. Trong trường hợp cho rằng ngân hàng thương mại là đối tượng đặc thù, cần có quy định điều chỉnh cụ thể để tránh ảnh hưởng đến các hoạt động kinh doanh khác của ngân hàng, đề nghị: (i) sử dụng, dẫn chiếu các thuật ngữ từ Luật Thương mại, Nghị định 158/2006/NĐ-CP, Nghị định 51/2018/NĐ-CP; (ii) bổ sung quy định các ngân hàng thương mại có trách nhiệm tuân thủ các quy định tại Luật Thương mại, Nghị định 158/2006/NĐ-CP, Nghị định 51/2018/NĐ-CP; (iii) chỉ quy định các trách nhiệm khác.
Trước đó, tại dự thảo, NHNN đề xuất cho phép ngân hàng thương mại được nhận ký quỹ, ký quỹ bổ sung, thanh toán, báo giá, phí, định giá, phí, ghi giá và phí trong hợp đồng bằng VND hoặc bằng ngoại tệ theo thỏa thuận giữa ngân hàng thương mại và khách hàng. Quy định này hỗ trợ các ngân hàng thương mại về mặt kỹ thuật trong việc đưa ra những giải pháp bảo hiểm giá cả và quản lý rủi ro khi thực hiện cung ứng sản phẩm phái sinh giá cả hàng hóa đối với khách hàng qua sàn giao dịch hàng hóa ở nước ngoài và thực hiện đối ứng trên thị trường quốc tế.
Về việc mua/bán ngoại tệ liên quan đến giao dịch phái sinh giá cả hàng hóa, NHNN đề xuất bổ sung quy định trường hợp khách hàng không có hoặc không có đủ ngoại tệ để ký quỹ, ký quỹ bổ sung hoặc thực hiện nghĩa vụ thanh toán phát sinh khi thực hiện hợp đồng phái sinh giá cả hàng hóa, thì khách hàng được mua ngoại tệ tại chính ngân hàng thương mại cung ứng sản phẩm phái sinh giá cả hàng hóa hoặc tại tổ chức tín dụng khác được phép hoạt động ngoại hối. Việc mua, bán ngoại tệ thực hiện theo quy định của NHNN về hướng dẫn giao dịch ngoại tệ trên thị trường ngoại tệ của các tổ chức tín dụng được phép hoạt động ngoại hối; trường hợp khách hàng mua ngoại tệ có kỳ hạn thì kỳ hạn của giao dịch này bằng hoặc ngắn hơn thời hạn giao dịch còn lại của hợp đồng phái sinh giá cả hàng hóa. Việc bổ sung quy định này nhằm quy định cụ thể việc mua, bán ngoại tệ để ký quỹ, ký quỹ bổ sung hoặc thanh toán các nghĩa vụ phát sinh khi thực hiện giao dịch phái sinh giá cả hàng hóa.
Bên cạnh đó, NHNN cũng bổ sung quy định trường hợp khách hàng được nhận ngoại tệ từ giao dịch phái sinh giá cả hàng hóa, thì nguồn ngoại tệ này được sử dụng để thanh toán cho các nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch gốc của khách hàng hoặc khách hàng phải bán nguồn ngoại tệ này cho ngân hàng thương mại cung ứng sản phẩm phái sinh giá cả hàng hóa. Mục đích của việc bổ sung quy định này nhằm làm rõ trường hợp khách hàng nhận ngoại tệ thì chỉ được sử dụng ngoại tệ đó để phục vụ cho các nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng gốc của khách hàng hoặc phải bán cho ngân hàng, phù hợp với quy định về hạn chế giao dịch bằng ngoại tệ trong nước.
Bổ sung quy định ngân hàng thương mại cung ứng sản phẩm phái sinh giá cả hàng hóa bằng phương tiện điện tử phải xây dựng quy trình cung ứng sản phẩm phái sinh giá cả hàng hóa bằng phương tiện điện tử phù hợp với quy định của pháp luật về phòng, chống rửa tiền, pháp luật về giao dịch điện tử và các quy định pháp luật liên quan, đảm bảo an toàn bảo mật thông tin khách hàng và an toàn hoạt động của ngân hàng thương mại.
Đồng thời, ngân hàng thương mại phải lưu trữ, bảo quản thông tin, dữ liệu liên quan đến việc cung ứng sản phẩm phái sinh giá cả hàng hóa bằng phương tiện điện tử theo quy định của pháp luật, đảm bảo an toàn, bảo mật và được sao lưu dự phòng đảm bảo tính đầy đủ, toàn vẹn của hợp đồng cho phép truy cập, sử dụng khi cần thiết hoặc để phục vụ công tác kiểm tra, đối chiếu, giải quyết tra soát, khiếu nại, tranh chấp và cung cấp thông tin khi có yêu cầu từ cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền. Mục đích của quy định này nhằm tạo thuận lợi cho việc ứng dụng công nghệ số trong thực hiện sản phẩm phái sinh giá cả hàng hóa, phù hợp với kế hoạch chuyển đổi số ngành ngân hàng.
Bổ sung quy định cho phép ngân hàng thương mại có quyền giải ngân cho vay bắt buộc đối với khách hàng trong trường hợp sau khi tất toán khách hàng vẫn còn nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng phái sinh giá cả hàng hóa. Việc giải ngân cho vay bắt buộc chỉ xảy ra trong trường hợp sau khi tất toán, khách hàng vẫn còn nghĩa vụ phải thanh toán với ngân hàng nên không ảnh hưởng đến nguyên tắc không cấp tín dụng cho khách hàng trong quá trình cung ứng sản phẩm phái sinh giá cả hàng hóa. Quy định này hỗ trợ về mặt kỹ thuật cho ngân hàng trong việc theo dõi và thu hồi các khoản phát sinh khách hàng vẫn còn nghĩa vụ phải thanh toán với ngân hàng sau khi tất toán.
Bảo Lâm









