Danh nhân Việt Nam tuổi Dậu

author 10:00 26/01/2017

(VietQ.vn) - Theo quan niệm tín ngưỡng truyền thống, người tuổi Gà (sinh năm Dậu) thường chăm chỉ, năng động, tài hoa, mạnh mẽ và thành đạt. Trong số các danh nhân góp phần làm rạng rỡ nền văn hiến Việt Nam, có nhiều vị sinh năm Dậu…

*ĐINH BỘ LĨNH: Sinh năm Ất Dậu 925, quê Ninh Bình, vị vua đầu nhà Đinh. Giỏi võ nghệ, nhiều mưu lược, có tài chỉ huy, gia nhập đạo binh của sứ quân Trần Lãm, coi giữ vùng duyên hải Bắc Bộ. Với lực lượng ngày càng lớn mạnh, năm 966 dẹp được loạn cát cứ, thống nhất quốc gia. Năm 968 ông lên ngôi Hoàng đế, lập ra triều Đinh, đóng đô tại Hoa Lư (Ninh Bình), đặt tên nước ta là Đại Cồ Việt và cho ban hành nhiều chính sách tiến bộ.

* LƯƠNG THẾ VINH: Sinh năm Tân Dậu 1441, quê Nam Định, nhà toán học, danh sĩ đời Lê Thánh Tông. Cực kỳ thông minh, nhanh nhạy, đỗ trạng nguyên năm 23 tuổi, làm việc trong Viện Hàn lâm đến chức Thừa chỉ. Ông được coi là nhà toán học nổi bật nhất ở Việt Nam thời xưa với tác phẩm Đại thành toán pháp đặc sắc. Ông cũng là 1 trong 28 thành viên của Hội thơ Tao Đàn danh tiếng và để lại nhiều tác phẩm thơ văn, Phật luận, triết học giá trị.

Danh nhân Việt Nam tuổi Dậu

Lương Thế Vinh sinh năm Tân Dậu -1441, nổi tiếng về sự uyên bác

* NGUYỄN HOÀNG: Sinh năm Ất Dậu 1525, quê Thanh Hóa, thủy tổ nhà Nguyễn. Thông minh, nghị lực, giàu chí tiến thủ, cùng cha phò tá vua Lê, được phong tới tước Quận công. Sau năm 1558 vào làm Trấn thủ Thuận Quảng, cai quản dải đất miền Trung từ Quảng Bình tới Đà Nẵng, tích cực chiêu dân lập ấp, mở mang bờ cõi và chống chúa Trịnh lộng quyền ngoài Bắc. Dưới sự điều hành của ông, mọi việc quân sự, nội trị, ngoại giao đều phát triển và dân vùng đất mới sống khá ấm no, ổn định. Ông được coi là người đặt nền tảng cho công cuộc Nam tiến và tạo lập Vương triều Nguyễn.

* GIANG VĂN MINH: Sinh năm Quý Dậu 1573, quê Hà Nội, danh sĩ đời Lê Thần Tông. Khảng khái, cương trực, đỗ thám hoa, thăng quan đến chức Tự khanh. Giỏi việc chính trị lại tài ứng đối, năm 1637 ông được cử làm Phó sứ sang nhà Thanh (Trung Quốc). Tới nơi, ông dũng cảm đàm thoại với khí phách độc lập, tự chủ và hiên ngang của người Việt, khiến cả triều Thanh phải hổ thẹn, cho quân sát hại.

* NGUYỄN GIA THIỀU: Sinh năm Tân Dậu 1741, quê Bắc Ninh, nhà văn hóa, danh thần thời Lê mạt. Hoạt bát, bản lĩnh, lại văn võ song toàn, rất được vua Lê chúa Trịnh trọng dụng. Ông tiến nhanh trên đường binh nghiệp: mới 18 tuổi đã làm Hiệu úy, năm 30 tuổi thăng tới chức Tổng binh, chỉ huy toàn bộ quân đội, đắc lực giúp triều đình dẹp loạn lạc. Ông còn nổi tiếng với năng khiếu văn, triết, sử, đồng thời rất thông tuệ về âm nhạc, hội họa, kiến trúc,  trở  thành  một  nhân  vật  sáng  giá  nhất  nước  ta bấy giờ.

* NGÔ THÌ CHÍ: Sinh năm Quý Dậu 1753, quê Hà Nội, danh sĩ thời Lê mạt. Giỏi văn thơ, trọng nghĩa khí, đỗ hương tiến, làm quan đến Thiêm thư Bình chương tỉnh sự, tận tụy phục vụ triều Lê. Ông còn là nhà nghiên cứu và sư phạm nổi tiếng, để lại những tác phẩm thi ca, lịch sử, giáo lý, triết luận rất giá trị.

Danh nhân Việt Nam tuổi Dậu

 Quang Trung- Nguyễn Huệ sinh năm Quý Dậu 1753 là một trong những vị tướng tài bậc nhất của dân tộc 

 

* NGUYỄN HUỆ: Sinh năm Quý Dậu 1753, quê Bình Định, anh hùng dân tộc, nhà quân sự lỗi lạc. Xuất thân từ gia đình nông dân nghèo, nhưng mạnh mẽ, quyết liệt, am tường văn võ, say mê binh pháp, năm 1771 ông cùng anh em lập đồn trại trong vùng núi Tây Sơn, chiêu tập nghĩa quân chống lại quyền thần Trương Phúc Loan. Lực lượng nhanh chóng lớn mạnh, tiến chiếm phủ thành Quy Nhơn (Bình Định), rồi Quảng Ngãi, Bình Thuận…, làm chủ cả dải đất miền Trung. Năm 1782, đưa binh vào Nam, đánh bại các chúa Nguyễn. Tháng 1/1785, bằng thế trận thiên la địa võng, làm nên chiến thắng Rạch Gầm-Xoài Mút (Tiền Giang) vang dội, đại phá 5 vạn giặc Xiêm (Thái Lan) do chúa Nguyễn Ánh rước về. Ngay năm sau, tiến ra Thăng Long, chỉ trong mấy ngày bình định xong đất Bắc, tiêu diệt tập đoàn chúa Trịnh lộng hành. Năm 1788, ông lên ngôi Hoàng đế, hiệu Quang Trung, đóng đô ở Phú Xuân (Huế). Tết Kỷ Dậu 1789, ông lại chỉ huy quân Tây Sơn thần tốc ra Bắc, đánh tan 29 vạn giặc Thanh vừa kéo sang xâm lược, giải phóng và thống nhất hoàn toàn đất nước.

* NGUYỄN DU: Sinh năm Ất Dậu 1765,  quê Hà Tĩnh, thi hào nổi tiếng. Đa tài, nghị lực, sớm theo giúp nhà Nguyễn, trải giữ nhiều cương vị hành chính, giáo dục, ngoại giao quan trọng, làm tới Hữu Tham tri Bộ Lễ và từng lãnh đạo đoàn đi sứ Trung Quốc năm 1813. Ông sáng danh trong lịch sử thơ ca Việt Nam với nhiều tác phẩm bình dị mà ấn tượng, dạt dào tình cảm, thấm đẫm tinh thần nhân đạo, đặc biệt là Truyện Kiều.

* TRỊNH HOÀI ĐỨC: Sinh năm Ất Dậu 1765,  quê Đồng Nai, danh sĩ thời Nguyễn sơ. Văn võ song toàn, phong thái mạnh mẽ, năm 1788 thi đỗ rồi ra làm quan, rất được triều đình trọng dụng, phong tới Thượng thư (Bộ trưởng) Bộ Lễ kiêm Bộ Hình và Phó Tổng tài Quốc sử quán. Ông từng đi sứ Trung Quốc nhiều lần và là tác giả của các công trình địa lý, lịch sử, văn thơ giá trị.

Danh nhân Việt Nam tuổi Dậu

 Nguyễn Du được công nhận là danh nhân văn hóa thế giới

* HÀ TÔNG QUYỀN: Sinh năm Kỷ Dậu 1789, quê Hà Nội, danh sĩ đời Minh Mạng. Giỏi văn thơ, am tường chính trị, ngoại giao, năm 1822 đỗ tiến sĩ, làm việc trong Bộ Lại và Viện Cơ mật. Ông từng đi sứ Indonesia và để lại nhiều tác phẩm thi ca, lịch sử, triết luận.

* NGUYỄN HỮU ĐỘ: Sinh năm Quý Dậu 1813, quê Thanh Hóa, đại thần thời Nguyễn mạt. Sắc sảo, uyên thâm, đỗ tiến sĩ năm 1838, thăng quan đến hàm Thái sư, làm cố vấn đắc lực cho các vua Đồng Khánh, Thành Thái. Giỏi ngoại giao, ông được người Pháp tin tưởng và trở thành nhân vật trung gian hòa giải thành công những mâu thuẫn Việt - Pháp bấy giờ. Ông cũng là tác giả của nhiều công trình văn hóa, lịch sử và lễ nghi.

*NGUYỄN TRUNG TRỰC: Sinh năm Đinh Dậu 1837, quê Long An, anh hùng kháng Pháp. Ngang tàng, khảng khái, nồng nàn yêu nước, hưởng ứng hịch Cần vương, chiêu mộ nhân dân nổi dậy đánh phá các đồn giặc và được triều đình phong làm Lãnh binh Hà Tiên. Dưới sự chỉ huy của ông, cuộc khởi nghĩa lan rộng với nhiều chiến thắng oanh liệt khắp vùng Tây Nam Bộ, khiến quân Pháp lao đao. Giặc đàn áp dữ dội, ông bị truy dồn ra đảo Phú Quốc và hy sinh ngày 27/10/1868.

* TRƯƠNG VĨNH KÝ: Sinh năm Đinh Dậu 1837, quê Bến Tre, học giả xuất sắc. Nổi tiếng thông minh, hiếu học, từ bé đã thạo chữ Hán, quốc ngữ, được đưa đi học tiếng Latin, rồi giành học bổng đào tạo tại trường Penang trên Ấn Độ Dương những năm 1851-1858. Sau đó về nước, hoạt động phiên dịch, báo chí và nghiên cứu. Ông sử dụng được 11 ngoại ngữ phương Đông, 15 ngoại ngữ phương Tây, là tác giả của hơn 100 bộ sách, hàng nghìn bài viết, có chân trong nhiều hội khoa học quốc tế, cống hiến lớn cho các chuyên ngành: văn hóa, ngôn ngữ, báo chí, địa lý, nhân chủng học…và được xếp vào danh sách 18 nhà bác học hàng đầu thế giới bấy giờ.

* TRẦN XUÂN SOẠN: Sinh năm Kỷ Dậu 1849, quê Thanh Hóa, nhà yêu nước thời cận đại. Xuất thân từ gia đình nông dân nghèo, nhập ngũ, lập nhiều chiến công, được thăng tới chức Đề đốc. Năm 1885, kinh thành Huế thất thủ, ông cùng Tôn Thất Thuyết đưa vua Hàm Nghi ra Quảng Trị, phát hịch Cần vương chống Pháp và tích cực hoạt động ở miền Trung. Bị đàn áp mạnh, ông rút lên biên giới, gây dựng lực lượng rồi quay lại phản công, khiến giặc thất điên bát đảo. Ông mất tại Long Châu (Trung Quốc) năm 1923.

* PHẠM NGỌC THẠCH: Sinh năm Kỷ Dậu 1909, quê Quảng Nam, bác sĩ, nhà hoạt động cách mạng. Linh hoạt, mẫn cảm, giàu lòng ái quốc, theo học y khoa bên Pháp xong, về nước nhiệt tình xây dựng các cơ sở cách mạng, trở thành thủ lĩnh phong trào thanh niên tiền phong Sài Gòn trước năm 1945. Sau Cách mạng tháng Tám, là Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính khu Sài Gòn-Gia Định, rồi ra Bắc, được cử làm Bộ trưởng Y tế đầu tiên của Việt Nam. Ông cống hiến xuất sắc cho nền y tế nước nhà với nhiều công trình y học quy mô và hiệu quả, đặc biệt  trong việc phòng chống bệnh sốt rét.

Danh nhân Việt Nam tuổi Dậu

 Giáo sư Lương Định Của sinh năm Tân Dậu 1921 

* LƯƠNG ĐỊNH CỦA: Sinh năm Tân Dậu 1921, quê Sóc Trăng, giáo sư, tiến sĩ nông nghiệp. Say mê nghiên cứu cây trồng, ông du học Nhật Bản, rồi quay về phục vụ Tổ quốc. Với lối sống giản dị, chân thành, cởi mở, tác phong làm việc nghiêm túc, cần mẫn và khoa học, sáng tạo, ông lai kết ra nhiều giống lúa, khoai, ngô, dưa… mới, rất thiết thực với nền nông nghiệp Việt Nam. Từ năm 1954 tập kết ra Bắc, trải giữ nhiều cương vị quan trọng. Ông được bà con nông dân cả nước mến mộ, gọi là “bác học của đồng ruộng” và được Nhà nước phong tặng nhiều danh hiệu cao quý. 

Hương vị Tết Nguyên Đán của các nước châu Á(VietQ.vn) - Tết Nguyên Đán là đánh dấu sự kết thúc của mùa đông, khởi đầu mùa xuân mới, mang đến những hy vọng về mọi sự may mắn tốt lành.

Công Hiếu

Thích và chia sẻ bài viết:

tin liên quan

video hot

Về đầu trang