Xuất khẩu dịch vụ của Việt Nam: Tiềm năng và những hạn chế

author 05:44 23/03/2017

(VietQ.vn) - Xuất khẩu dịch vụ là lĩnh vực quan trọng, mang lại nguồn thu lớn, thể hiện được tiềm năng xuất khẩu. Tuy nhiên, ở Việt Nam, lĩnh vực này còn nhiều hạn chế cả về lượng và chất.

Theo báo Nhân Dân đăng tải, xuất khẩu dịch vụ là hoạt động thương mại, theo đó, dịch vụ được cung ứng bởi một thương nhân (doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân) tới người tiêu dùng (các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân) quốc gia khác, thông qua bốn hình thức: Xuất khẩu qua biên giới; Nhà cung ứng di chuyển sang quốc gia khác; Người sử dụng dịch vụ di chuyển tới quốc gia cung ứng dịch vụ; Nhà cung ứng và người tiêu dùng cùng di chuyển đến một quốc gia thứ ba.

Tác động của mở cửa thị trường dịch vụ đối với xuất nhập khẩu dịch vụ

Ở Việt Nam xuất khẩu dịch vụ còn nhiều hạn chế cả về lượng và chất. Ảnh minh họa

Xuất khẩu dịch vụ của Việt Nam đang phát triển dưới tiềm năng khi kim ngạch xuất khẩu dịch vụ những năm gần đây chỉ đạt khoảng 10 tỷ USD/năm, so với 35 tỷ USD của Thái Lan, 32 tỷ USD của Malaysia và 20 tỷ USD của Indonesia…

Thực tế cho thấy, kim ngạch xuất khẩu dịch vụ của Việt Nam đã tăng gần như liên tục qua các năm. Thời kỳ 2006-2013, tăng 11,9%/năm, cao gấp rưỡi tốc độ tăng GDP do nhóm ngành dịch vụ tạo ra trong thời gian tương ứng (7,18%/năm). Một số dịch vụ đã có xuất siêu, như dịch vụ du lịch (năm 2005, xuất siêu 1,4 tỷ USD; năm 2010, xuất siêu 2,98 tỷ USD; năm 2013, xuất siêu 5,48 tỷ USD); dịch vụ bưu chính viễn thông (năm 2005, xuất siêu 69 triệu USD; năm 2010, xuất siêu 58 triệu USD; ước năm 2013, xuất siêu 102 triệu USD).

Kinh nghiệm của các nước đang phát triển, kể cả của các nước mới nổi và của Việt Nam cho thấy, việc tập trung cho sản xuất và xuất khẩu hàng hóa - thậm chí trở thành công xưởng của thế giới - đang được xem xét lại. Xuất khẩu hàng hóa và xuất siêu về hàng hóa sẽ bị giảm ý nghĩa, nếu lại nhập siêu lớn và ngày một tăng về dịch vụ. Các nước phát triển đang nhập, thậm chí nhập siêu rất lớn về hàng hóa để được hưởng giá cả rẻ, hưởng chênh lệch cánh kéo tỷ giá, hưởng giá nhân công rẻ, chuyển ô nhiễm trực tiếp ra nước ngoài... trong khi đó lại xuất siêu lớn về dịch vụ vận tải, tài chính, bảo hiểm, cho vay đầu tư (cả trực tiếp, cả gián tiếp, cả dưới dạng hỗ trợ chính thức)...

Trong xuất khẩu dịch vụ, Việt Nam có nhiều thuận lợi cả về thị trường và cơ cấu dịch vụ, phương thức xuất khẩu và điều kiện cần thiết để triển khai xuất khẩu dịch vụ chất lượng cao.

Điều kiện hưởng lương hưu khi suy giảm khả năng lao động(VietQ.vn) - Về điều kiện hưởng lương hưu khi suy giảm khả năng lao động được quy định tại Điều 55 của Luật Bảo hiểm xã hội (BHXH).

Theo báo Nhân Dân, việc Việt Nam tham gia các hiệp định FTA, nhất là AEC và TPP,... đã mở ra cơ hội thu hút đầu tư nước ngoài, đẩy mạnh xuất khẩu dịch vụ đến các thị trường lớn, nhất là sự tự do di chuyển lao động có tay nghề qua biên giới các nước thành viên; cụ thể với AEC, lao động trong tám ngành nghề dịch vụ đã được thỏa thuận công nhận tay nghề tương đương được tự do di chuyển nội khối, gồm: kế toán, kiến trúc sư, nha sĩ, bác sĩ, điều dưỡng, kỹ sư, vận chuyển và nhân viên ngành du lịch.

Ngoài ra, xuất khẩu dịch vụ cũng có thêm cơ hội trong 12 ngành khuyến khích liên kết sản xuất theo cam kết AEC, đó là: Hàng nông sản; Ô tô; Điện tử; Nghề cá; Các sản phẩm từ cao su; Dệt may; Các sản phẩm từ gỗ; Vận tải hàng không; Thương mại điện tử ASEAN; Chăm sóc sức khỏe; Du lịch; và Logistics.

Riêng với TPP khi được thông qua, sẽ là cú đột phá tạo sân chơi mới rộng mở cho xuất khẩu các dịch vụ tài chính - ngân hàng dưới hình thức xuất khẩu thương mại điện tử qua biên giới mà không cần hiện diện thể nhân…

Trên bình diện chung, Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư sửa đổi và các giải pháp cải thiện môi trường kinh doanh tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh xuất khẩu. Đặc biệt, mức thuế và thời gian nộp thuế đã có sự cải thiện đầy ấn tượng. Thuế thu nhập doanh nghiệp giảm còn 20% năm 2016 và dự kiến chỉ còn 17% vào năm 2017, thậm chí còn 15% cho doanh nghiệp khởi nghiệp so với mức 32% năm 1999. Thời gian nộp thuế chỉ còn dưới 117 giờ. Đồng thời, lãi suất và điều kiện kinh doanh cho doanh nghiệp được cải thiện theo hướng thấp hơn và thông thoáng hơn.

Thời gian đăng ký thành lập doanh nghiệp và thông quan rút ngắn hơn. Tính chất tự do hóa và bình đẳng kinh doanh thị trường được tô đậm hơn. “Room” cho các nhà đầu tư nước ngoài được nới rộng hơn. Khu vực DNNN giảm dần về quy mô, tỷ trọng và thu hẹp độc quyền. Khu vực DN tư nhân ngày càng được coi trọng và hồi phục…

Ngoài ra, còn hàng trăm hiệp định kinh tế - thương mại song phương và đa phương, với hàng chục FTA thế hệ mới đã được Việt Nam ký kết hoặc đang đàm phán thuận lợi nhiều hiệp định khác, trong đó, có với hầu hết các nền kinh tế G20 và các thị trường lớn khác trên thế giới… Sự cộng hưởng của xung lực tích cực trên đã tạo sự đột phá cải thiện môi trường đầu tư của Việt Nam, được dư luận cả trong nước và quốc tế ghi nhận, đánh giá cao.

Bên cạnh những thuận lợi thì việc thực hiện xuất khẩu dịch vụ cũng có những khó khăn nhất định, như tình hình thế giới đang diễn biến khó lường; xu hướng bảo hộ và sự cạnh tranh gia tăng ở các nước đối tác xuất khẩu của Việt Nam. Sự tận dụng cơ hội và chủ động đối phó với thách thức chưa thật tốt. Thể chế kinh tế thị trường chậm được hoàn thiện và phát triển thiếu đồng bộ. Chất lượng tăng trưởng và sức bền vững của nền kinh tế còn yếu và chậm được cải thiện.

Năng lực cạnh tranh của quốc gia, của doanh nghiệp và sản phẩm còn hạn chế; chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng còn chậm. Kết cấu hạ tầng và nguồn nhân lực còn nhiều bất cập. Công nghệ sản xuất chậm được đầu tư, đổi mới; chuyển giao công nghệ ít được quan tâm. Quản lý, điều hành, quản trị doanh nghiệp chưa bắt kịp với yêu cầu của tình hình cạnh tranh ngày càng quyết liệt.

Năng lực và sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý cấp, ngành và địa phương còn nhiều bất cập; Cải cách hành chính chưa được đẩy mạnh, cơ chế, chính sách chưa đáp ứng được yêu cầu. Chủ trương của Đảng chưa được quán triệt và thực hiện đầy đủ, chậm được cụ thể hóa và thể chế hóa. Các cấp, các ngành, các tổ chức và cá nhân chưa nhận thức sâu sắc và chưa chủ động tận dụng các cơ hội; đồng thời, chưa thấy rõ thách thức để chủ động ứng phó; chưa lường trước được các hoạt động tiêu cực ở nước ngoài để có những biện pháp hạn chế hữu hiệu.

Hơn nữa, khó khăn xuất khẩu dịch vụ còn đến do nhiều dịch vụ chưa thực sự đa dạng, có chất lượng và có thương hiệu; tính chuyên nghiệp và tuân thủ các quy chuẩn quốc tế thấp. Sự công nhận các văn bằng chứng chỉ nghề và chuyên môn, các tiêu chuẩn kỹ thuật giữa Việt nam với các nước còn chưa được quan tâm hoặc nhiều hạn chế.

 

Ninh Lan (T/h)

Thích và chia sẻ bài viết:

tin liên quan

video hot

Về đầu trang