Mũ bảo hiểm giá rẻ, kém chất lượng vẫn bán tràn lan ngoài thị trường

author 06:32 23/06/2023

(VietQ.vn) - Mũ bảo hiểm là phương tiện bảo vệ người tiêu dùng mỗi khi tham gia giao thông tuy nhiên sản phẩm này vẫn bán tràn lan với giá rẻ, chất lượng kém tiềm ẩn nhiều rủi ro.

Quy định người ngồi trên mô tô, xe gắn máy phải đội mũ bảo hiểm đã được thực hiện trong nhiều năm qua và mang lại hiệu quả rõ rệt trong việc giảm thiệt hại về người trong các vụ tai nạn giao thông. Thế nhưng, vấn nạn mũ giả mũ bảo hiểm có giá rẻ, không dán tem hợp quy, MBH “dỏm”… được bày bán tràn lan đe dọa đến quyền lợi và sự an toàn cho người tiêu dùng.

Theo Nghị định 87/2016/NĐ-CP, chỉ các tổ chức, cá nhân đã đăng ký kinh doanh, có địa điểm cụ thể và địa chỉ rõ ràng mới được bán mũ bảo hiểm. Tuy nhiên, trên nhiều tuyến đường, chợ, vỉa hè, cửa hàng tạp hóa, xe đẩy… mũ bảo hiểm siêu mỏng, siêu rẻ vẫn được bày bán công khai.

Trước đây, phải bỏ ra ít nhất 200.000 đồng, người tiêu dùng mới sở hữu được một chiếc mũ bảo hiểm, giờ chỉ cần vài chục ngàn đồng là có ngay chiếc mũ bảo hiểm như ý thích. Thậm chí ngay cả các đợt hội chợ, mũ bảo hiểm giá rẻ được bày bán rất nhiều. Mũ bảo hiểm còn được các công ty, doanh nghiệp tận dụng làm tặng phẩm, quà kèm.

Ngoài ra, trên nhiều trang mạng xã hội, việc chào bán mũ bảo hiểm giá rẻ cũng diễn ra phổ biến. Theo những người kinh doanh mặt hàng này, sở dĩ mũ bảo hiểm giá rẻ được khách hàng ưa chuộng là bởi giá “mềm”, mẫu mã cập nhật liên tục để người tiêu dùng thay đổi thời trang.

 Mũ bảo hiểm giá rẻ, kém chất lượng vẫn bán tràn lan. Ảnh minh họa

Trên thực tế, đã không ít lần lực lượng chức năng các tỉnh phát hiện và xử lý lượng lớn mũ bảo hiểm giả mạo nhãn hiệu, mũ bảo hiểm kém chất lượng. Đơn cử gần đây nhất, Đội QLTT số 4, Cục QLTT tỉnh Phú Yên phối hợp với lực lượng Công an huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên đã phát hiện 700 chiếc mũ bảo hiểm không có hoá đơn chứng từ chứng minh nguồn gốc xuất xứ của hàng hoá. 

Tiếp đến, Đội QLTT số 1 – Cục QLTT tỉnh Quảng Ninh đã phối hợp với Phòng Cảnh sát giao thông đường bộ, đường sắt - Công an tỉnh Quảng Ninh kiểm tra xe ô tô tải mang biển số 14H-008.87 trên địa bàn Tp Hạ Long. Trong quá trình thực hiện quyết định khám, Đội QLTT số 1 đã phát hiện 468 chiếc mũ bảo hiểm mang nhãn hiệu Honda có dấu hiệu giả mạo nhãn hiệu. Bên cạnh đó, ông Trọng Thành Vinh -chủ hàng - không thể xuất trình bất kỳ hoá đơn hoặc chứng từ nào liên quan đến số hàng hoá trên xe.

Theo một chuyên gia về an toàn giao thông, mỗi chiếc mũ khi sản xuất ra phải bảo đảm đạt tiêu chuẩn chất lượng về chất liệu vỏ mũ, đệm bảo vệ và quai đeo; đạt các chỉ tiêu về kích thước và các chỉ số thử nghiệm bảo đảm an toàn đối với người dùng. Kết quả công bố khảo sát chất lượng của Ủy ban An toàn giao thông quốc gia trên 540 loại mũ bảo hiểm cho thấy, có đến 25,9% số mũ là "mũ bảo hiểm lưỡi trai", loại mũ có lớp vỏ nhựa mỏng, không có xốp hoặc phần xốp rất mỏng bảo vệ phần đầu của người sử dụng cho nên không được xem là mũ bảo hiểm cho người đi mô-tô, xe máy theo quy định.

Đại diện một số doanh nghiệp sản xuất mũ bảo hiểm cho biết: Chi phí để sản xuất một chiếc mũ bảo hiểm đáp ứng tối thiểu các tiêu chuẩn an toàn hiện nay khoảng 60 nghìn đến 70 nghìn đồng, nhưng tại các cửa hàng bán với giá 30 nghìn đồng/chiếc. Một số đối tượng đã lợi dụng kẽ hở của quy định pháp luật, cơ chế chính sách thuận lợi cho các doanh nghiệp trong nước mở rộng sản xuất, kinh doanh trong ngành hàng mũ bảo hiểm để cấu kết, trao đổi mua bán, cung cấp nguồn hàng không rõ nguồn gốc xuất xứ, linh kiện giá rẻ, không bảo đảm chất lượng để lắp ráp và tự in nhãn hàng hóa, dán dấu hợp quy giả mạo, cho nên các sản phẩm mũ bảo hiểm chưa được đăng kiểm, chứng nhận hợp quy.

Báo cáo của Tổ chức Y tế thế giới đã chỉ rõ, đội mũ bảo hiểm chất lượng tốt có thể giảm 69% chấn thương sọ não và giảm 42% khả năng tử vong đối với người ngồi trên xe máy khi có va chạm giao thông. Những người không đội mũ bảo hiểm sẽ gặp chấn thương nặng và tử vong cao gấp ba lần so với người đội mũ bảo hiểm đạt chuẩn. Tại Việt Nam, tỷ lệ người tham gia giao thông đội mũ giả mạo mũ bảo hiểm (mũ lưỡi trai nhựa) khá cao, bình quân khoảng 20% trên cả nước; tại một số thành phố lớn như Hà Nội thậm chí lên tới 40%.

Tình trạng mũ bảo hiểm giá rẻ, làm giả, làm nhái được bày bán công khai - điều này không những làm ảnh hưởng đến cơ sở làm ăn chân chính, thất thoát ngân sách nhà nước mà qua đó không bảo vệ sự an toàn cho người tiêu dùng, trong khi đó, thời gian gần đây công tác kiểm tra, xử lý mặt hàng này dường như bị thả nổi, vì vậy thị trường MBH giá rẻ diễn ra tràn lan, khó kiểm soát.

Trước thực trạng trên đòi hỏi các ngành chức năng cần tăng cường kiểm tra, xử lý, tịch thu, tiêu hủy các loại mũ bảo hiểm giá rẻ, không đảm bảo chất lượng, không rõ nguồn gốc, xuất xứ. Và, quan trọng hơn cả vẫn là ý thức của người tiêu dùng, đừng vì ham giá rẻ mà mua mũ bảo hiểm kém chất lượng không đủ khả năng, che chắn để bảo vệ an toàn cho bản thân.

Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về mũ bảo hiểm cho người đi mô tô, xe máy

Ngày 15/6/2021, Bộ KH&CN ban hành Thông tư số 04/2021/TT-BKHCN về “Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về mũ bảo hiểm cho người đi mô tô, xe máy QCVN 2:2021/BKHCN”. Ban hành kèm theo Thông tư này Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về mũ bảo hiểm cho người đi mô tô, xe máy (QCVN 2:2021/BKHCN). 

Quy chuẩn kỹ thuật này quy định mức giới hạn của quy định kỹ thuật đối với mũ bảo hiểm dùng cho người đi: xe mô tô, xe gắn máy, xe đạp máy, xe máy điện, xe đạp điện và các loại tương tự.

Về phân loại theo vùng che phủ, quy định có 4 loại là mũ che nửa đầu; mũ che cả đầu và tai; mũ che cả đầu, tai và hàm; mũ che ba phần tư đầu.

Về Cỡ, thông số và kích thước cơ bản: theo chu vi vòng đầu, các cỡ mũ được quy định cụ thể và viện dẫn theo Điều 4 TCVN 5756:2017 với 9 cỡ mũ có chu vi vòng đầu từ 460mm đến 620mm.

Theo quy chuẩn này còn có quy định về kích thước lưỡi trai, không được quá 70mm (cho lưỡi trai rời tháo lắp được và không quá 50mm (cho lưỡi trai liền khối với vỏ mũ).

Quy chuẩn quy định khối lượng mũ cho các loại mũ che nửa đầu, che ba phần tư đầu; theo đó không được lớn hơn: 0,8 kg cho các cỡ mũ 1, 2 và 3 [(460, 480 và 500) mm]; 1,0 kg cho các cỡ mũ 4, 5, 6, 7, 8 và 9 [(520, 540, 560, 580, 600 và 620) mm]. Còn các cỡ mũ của loại mũ che cả đầu và tai, che cả đầu, tai và hàm đều không quy định.

Độ bền va đập và hấp thu xung động: Quy định mức yêu cầu kỹ thuật phương pháp thử độ bền va đập và hấp thu xung động có một số thay đổi.

Kính bảo vệ: quy định về hệ số truyền sáng cho kính màu nhạt, trong suốt là không nhỏ hơn 50% (với yêu cầu trên kính có ghi chú “chỉ dùng cho ánh sáng ban ngày”).

Về ghi nhãn: Trong QCVN 2:2021/BKHCN ngoài các thông tin ghi nhãn theo phiên bản năm 2008, yêu cầu trên mũ và trên bao bì phải có ghi nhãn thêm các thông tin về xuất xứ hàng hóa; kiểu mũ, hướng dẫn sử dụng, thông tin cảnh báo và đặc biệt có ghi khối lượng mũ và dung sai khối lượng.

Quy định về quản lý: Mũ bảo hiểm sản xuất trong nước phải công bố hợp quy theo các quy định mới như Thông tư 06/2020/TT-BKHCN ngày 10/12/2020 và các văn bản pháp quy liên quan trước khi đưa ra lưu thông trên thị trường.

Mũ nhập khẩu phải được kiểm tra nhà nước về chất lượng, được gắn dấu CR trước khi đưa ra lưu thông trên thị trường.

Theo đó, QCVN 2:2021/BKHCN với lộ trình áp dụng như sau: Kể từ ngày 1/1/2024, các mũ bảo hiểm cho người đi mô tô, xe máy (sau đây gọi tắt là mũ bảo hiểm, mũ) sản xuất trong nước, nhập khẩu phải đáp ứng các quy định tại QCVN 2:2021/BKHCN trước khi lưu thông trên thị trường; Khuyến khích các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân sản xuất, nhập khẩu mũ bảo hiểm cho người đi mô tô, xe máy áp dụng các quy định tại QCVN 2:2021/BKHCN kể từ ngày 1/8/2021

Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 8 năm 2021.

Các quy định trước đây liên quan đến Quy chuẩn mũ bảo hiểm hết hiệu lực kể từ 1/8/2021. Mũ bảo hiểm đã chứng nhận hợp quy, công bố hợp quy theo QCVN 2:2008/BKHCN trước ngày 1/1/2024 được tiếp tục lưu thông trên thị trường đến hết ngày 31/12/2024.

An Dương (T/h)

Thích và chia sẻ bài viết:

tin liên quan

video hot

Về đầu trang