Sứ mệnh của truyền thông KH&CN trong kỷ nguyên 4.0

author 11:26 28/12/2019

(VietQ.vn) - Theo PGS.TS Nguyễn Thành Lợi, trong kỷ nguyên 4.0, truyền thông KH&CN trở thành sức mạnh và là một trong những yếu tố quyết định sự phát triển của quốc gia dân tộc cũng như sự tiến bộ xã hội.

Hoạt động KH&CN tại các nước phát triển rất được coi trọng, bởi nó là động lực, là điều kiện tiên quyết tạo sự thành công trong việc đưa các kết quả nghiên cứu ứng dụng vào cuộc sống. Thực tế cho thấy, truyền thông KH&CN không chỉ đơn giản là việc các nhà khoa học đề cập đến những kết quả nghiên cứu của mình hoặc tạo ra các sự kiện khoa học hấp dẫn, mà còn hướng đến việc tạo nhận sự ủng hộ của công chúng đối với KH&CN.

Để có cái nhìn khách quan, đầy đủ hơn về vai trò của truyền thông KH&CN cũng như giải pháp nâng cao hiệu quả truyền thông KH&CN trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0, phóng viên Chất lượng Việt Nam Online (VietQ.vn) đã có cuộc trao đổi với PGS.TS Nguyễn Thành Lợi, Tổng biên tập Tạp chí Người làm báo.

Là người có nhiều năm công tác trong lĩnh vực báo chí, truyền thông, ông có đánh giá như thế nào về vai trò của truyền thông KH&CN trong thời đại này?

Theo tôi, hiện nay, truyền thông KH&CN đang phát triển trong quá trình toàn cầu hóa thông tin diễn ra mạnh mẽ, tác động đến mọi quốc gia, dân tộc. Do đó, việc tăng cường truyền thông, phổ biến tri thức KH&CN sẽ góp phần nâng cao dân trí phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia. Thực tế cho thấy, các nhà khoa học tham gia hoạt động truyền thông KH&CN là do yêu cầu xã hội, bởi qua truyền thông, giúp công chúng và các cơ quan quản lí có thêm nhiều thông tin chính xác hơn về khoa học, công nghệ, phục vụ nhu cầu phất triển của xã hội hiện đại. Có thể rút ra một số vấn đề chính sau:

Nhiều thông tin KH&CN đã được dùng làm cơ sở để soạn thảo các nghị quyết, hoạch định chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, góp phần vào thành công của công cuộc đổi mới. Đặc biệt, thông tin về khoa học tự nhiên cũng góp phần tạo luận cứ cho việc xây dựng chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế xã hội, tạo cơ sở cho quá trình tiếp thu và làm chủ công nghệ mới. Qua thông tin khoa học đăng tải trên các phương tiện truyền thông, nhiều ngành KH&CN gắn bó với sản xuất và đời sống, trong đó những thành tựu khoa học và công nghệ mới đã được ứng dụng, góp phần rất quan trọng vào việc nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả trong các ngành sản xuất công nghiệp, y tế, bưu chính viễn thông, giao thông vận tải, xây dựng, năng lượng, dầu khí, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu… xây dựng và củng cố quốc phòng – an ninh.

Theo ông, truyền thông nói chung và truyền thông KH&CN nói riêng có tác động như thế nào đến quá trình hoạch định chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước?

Nhìn từ đời sống báo chí và truyền thông hiện nay có thể thấy, báo chí đóng vai trò quan trọng trong đời sống xã hội, thông tin báo chí không chỉ là “chất liệu” của quá trình hoạch định chủ trương, chính sách mà còn là công cụ để tăng cường tiếng nói của người dân trong quá trình đó.

Do đó, khi trở thành cầu nối trung gian giữa báo chí và độc giả, thông tin cũng là công cụ mà nhờ sự trợ giúp của nó sẽ giải quyết được những nhiệm vụ đa dạng đang đặt ra trước toàn bộ hệ thống báo chí như một thiết chế xã hội đặc thù.

Là một thuật ngữ nền tảng của báo chí truyền thông, “thông tin” liên quan trực tiếp đến tính hiệu quả của các phương tiện thông tin đại chúng, đến những đòi hỏi phương pháp, hình thức sáng tạo của nhà báo, đến nguyên tắc và sự tác động qua lại giữa báo chí và công chúng.

Thông tin khoa học là cơ sở, căn cứ quan trọng cho việc hoạch định chủ trương, chính sách phát triển kinh tế- xã hội, đảm bảo cho các quyết sách phù hợp với quy luật khách quan, với mục tiêu chung của Đảng, Nhà nước và có hiệu quả trong thực tiễn. Vì vậy, những chính sách kinh tế - xã hội của địa phương phải căn cứ vào thông tin khoa học và đường lối chủ trương và định hướng phát triển của Đảng, phải phù hợp với những quy định pháp luật hiện hành. Các nhà hoạch định phải xuất phát từ thực tiễn, căn cứ khoa học để đề ra mục tiêu tổng quát và những quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước để xác định, lựa chọn đúng vấn đề cần cần đề ra chính sách.

Để xây dựng, hoạch định chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội, cần nhiều loại nguồn lực khác nhau, như nhân lực, vật lực, tài lực… trong đó nguồn lực không thể thiếu đó là thông tin khoa học. Mọi hoạt động kinh tế- xã hội đều liên quan đến thông tin. Bất cứ quyết định nào, thuộc lĩnh vực nào cũng đều chứa đựng một quá trình xử lý thông tin. Thông tin khoa học đầy đủ, chính xác, tin cậy về một sự việc và đến đúng thời điểm sẽ giúp cho người lãnh đạo có được tầm bao quát, quyết định thêm chính xác, tạo điều kiện lãnh đạo, quản lý tốt.

 

PGS.TS Nguyễn Thành Lợi, Tổng biên tập Tạp chí Người làm báo. Ảnh: Hán Hiển 

Nhờ sự phát triển của Internet, truyền thông xã hội đã len lỏi vào cuộc sống của từng cá nhân, tác động sâu sắc đến địa hạt riêng tư nhất của con người. Đặc biệt, truyền thông xã hội ngày càng thu hút nhiều người Việt Nam tham gia thảo luận mọi vấn đề của xã hội, làm thay đổi cách giao tiếp giữa cá nhân và tổ chức theo hướng cởi mở, minh bạch và đa chiều hơn, từ đó tác động vào quá trình ra quyết định, triển khai, điều chỉnh chính sách của các cơ quan tổ chức. Các cá nhân trong xã hội cũng được hưởng lợi từ những cuộc thảo luận công khai trên mạng xã hội, khi những nguyện vọng tập thể của họ được đáp ứng.

Trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn, sự tham gia thảo luận công chúng cũng như căn cứ vào thông tin khoa học là một trong những tiêu chuẩn quan trọng của truyền thông đại diện như một nhu cầu quan trọng cũng như một quyền cơ bản của con người.

Do vậy, sự tham gia của công chúng trong đó nhấn mạnh những thảo luận có tính khoa học đã được các học giả tương đối nhất trí là quá trình mà những mối quan tâm, nhu cầu, lợi ích… của cộng đồng được truyền đạt, đóng góp vào việc ra quyết định của chính quyền, dựa trên đối thoại, truyền thông hai chiều, tương tác giữa hai bên với mục đích chung là đưa ra chính sách tốt hơn. Trong thực tế, khi có những sự liên quan đến môi trường, thiên tai, lũ lụt hoặc những “nhân tai” (do con người tạo ra ), thông tin khoa học có vai trò quan trọng, cung cấp những luận điểm, luận cứ để giúp các nhà hoạch định chính sách tham khảo, đưa ra quyết định có tính chiến lược.

Thời gian qua khi tham gia thảo luận về các vấn đề xã hội, chính sách công, hoặc thảo luận trên các diễn đàn mạng xã hội do các nhà khoa học khởi xướng, đôi khi những thông tin khoa học đó đã tạo ra sự thay đổi lớn trong nhận thức và hành động của các cấp, các ngành.

Trước những tác động tích cực và tiêu cực của mạng xã hội hiện nay, Đảng và Nhà nước đã ban hành và triển khai và thực thi nhiều chính sách quan trọng đảm bảo quyền truyền thông của người dân. Trường hợp chính quyền Hà Nội đã tạm dừng việc triển khai đề án thay thế 6700 cây xanh là minh chứng cho thấy hiệu quả của sự tham gia của công chúng và sự đánh giá một cách khách quan về khoa học, một lần nữa thông tin khoa học ngày càng đóng vai trò quan trọng hơn bao giờ hết trong việc đưa ra những quyết sách mang tính thời sự.

Sự kiện quan trọng nhất năm 2015, đó là lần đầu tiên công chúng Việt Nam “lên tiếng” phản đối Đề án chặt hạ “6700 cây xanh ở Hà Nội” với những thông tin có tính khoa học, lập luận thuyết phục, khiến chính quyền lắng nghe và đồng thời đưa ra quyết định dừng lại đề án này.

Từ góc nhìn truyền thông có thể thấy, khi các nhà nghiên cứu đưa ra các lập luận có tính khoa học, phương thức tham gia, đánh giá hiệu quả, yếu tố ảnh hưởng của truyền thông đến sự tham gia của công chúng (truyền thông từ dưới lên), phương thức quản trị cơ quan, tổ chức… đối với các thảo luận trên mạng xã hội để hình thành và điều chỉnh vận động chính sách (truyền thông từ trên xuống). Đây là cơ sở để đưa ra những đề xuất sử dụng những thông tin khoa học đạt hiệu quả cao góp phần phát huy những mặt tích cực của thông tin khoa học trên truyền thông, từ đó hạn chế mặt tiêu cực trong thực thi quyền con người, đóng góp cho việc điều hành và quản lí xã hội hiệu hơn.

Thực tế cho thấy, loại thông điệp chiếm tỷ lệ nhiều nhất là bình luận ủng hộ liên quan đến thái độ ủng hộ, tán thành, đồng tình với phong trào bảo vệ 6700 cây xanh ở Hà Nội được khởi sướng trên các trang mạng xã hội cũng như phản đối, châm biếm việc chặt cây xanh, hoặc bình luận thể hiện trách nhiệm công dân. Tiếp đến là những bình luận tình cảm được các công chúng đưa ra nhằm thể hiện cảm xúc và tình yêu đối với cây xanh gắn liền với những kỉ niệm và đời sống của họ từ bao đời, sự bi ai, đau xót khi cây xanh đang khỏe mạnh bỗng dưng bị chặt hạ trên các tuyến phố Hà Nội. Các bình luận “than phiền” chiếm tỷ lệ thấp. Điều này cho thấy phần lớn công chúng đều ủng hộ mạnh mẽ phong trào bảo vệ 6.700 cây xanh trên mạng xã hội.

Kết quả nghiên cứu cho thấy, một trong những phát hiện quan trọng đó là động cơ khiến công chúng tìm đến những thông tin khoa học, kết hợp với các nhà khoa học thảo luận để tham gia phong trào bảo vệ 6.700 cây xanh là “trách nhiệm của công dân”, bởi họ có cảm giác được trao quyền lên tiếng đối với sự việc gây bất bình trong dư luận và có quyền ảnh hưởng tới các công chúng khác bằng cách kêu gọi, thảo luận, tìm kiếm sự ủng hộ của họ tạo sự tác động mạnh mẽ đến quyết định của chính quyền.

Có quan điểm cho rằng truyền thông KH&CN có vai trò tham mưu, tư vấn, phản biện các chủ trương, chính sách góp phần bảo đảm cho sự phát triển bền vững của đất nước. Ông nghĩ gì về quan điểm này?

Tôi đồng ý với quan điểm này. Đây cũng là một trong những công cụ để xử lí khủng hoảng truyền thông khi xảy ra các sự cố liên quan đến con người, mà chưa có cơ quan chức năng vào cuộc. Do đó, công tác tham mưu, tư vấn, phản biện là chức năng vốn có của các ngành khoa học nói chung và khoa học xã hội nói riêng, đặc biệt là khẳng điịnh vai trò của thông tin khoa học trong xã hội phát triển như hiện nay ở Việt Nam.

Thực tế cho thấy, từ khi đổi mới đến nay, vai trò tham mưu, tư vấn, phản biện của khoa học xã hội ngày càng được đề cao, đường lối, chủ trương, chính sách về phát triển đất nước nói chung, về phát triển bền vững nói riêng đã và đang được tiến hành lấy ý kiến đánh giá, thẩm định và phản biện từ các nhà khoa học. Nhờ đó, các quan điểm, chủ trương, chính sách về phát triển bền vững ngày càng có chất lượng hơn, sát hợp với thực tiễn cuộc sống hơn.

Từ yêu cầu của thực tiễn khách quan, trước rất nhiều vấn đề phát sinh trong đời sống xã hội, thông tin khoa học giúp các nhà hoạch định chính sách xác định và lựa chọn vấn đề để giải quyết bằng chính sách. Việc nghiên cứu, phân tích kĩ càng vấn đề sẽ giúp xác định nguyên nhân nảy sinh vấn đề, mức độ nghiêm trọng và hậu quả đối với cộng đồng, xã hội; và xác định với tác động ảnh hưởng đến xã hội ở mức như vậy có nên đưa vào chương trình nghị sự không. Từ đó, cơ quan hoạch định chính sách xác định đúng vấn đề của chính sách, là tiền đề và cơ sở để có thể đề xuất được phương án chính sách phù hợp.

Có thể thấy, chưa bao giờ thông tin về môi trường ở Hà Nội lại khiến người dân đặc biệt quan tâm, lo lắng, hoang mang như thời gian vừa qua. Những gì mà báo chí đưa tin về vụ cháy công ty Rạng Đông hay nguồn nước bị nhiễm dầu, ô nhiễm bầu không khí…càng khiến người ta lo ngại hơn, bởi các thông tin khoa học về vấn đề này chưa được các cơ quan chức năng đưa ra kịp thời, khiến dư luận xã hội rối loạn, ảnh hưởng trực tiếp đến cộng đồng…

Với tư cách là người có những nghiên cứu sâu rộng về tác động của truyền thông đối xã hội, ông nghĩ thế nào về tầm quan trọng của truyền thông KH&CN trong việc giúp các nhà hoạch định chủ trương, chính sách đưa ra các mục tiêu và giải pháp phát triển với tình hình thực tế và có tính khả thi?

Mục đích của hoạt động chính sách công chính là ban hành một chính sách công có thể giải quyết vấn đề công một cách triệt để và tốt nhất. Mục đích đó chỉ có thể đạt được thông qua xác định các giải pháp và phân tích các giải pháp. Xác định các giải pháp cung cấp cho các nhà hoạch định chính sách tất cả các phương án có thể giải quyết các vấn đề chính sách. Phân tích giải pháp giúp dự đoán những tác động tích cực hoặc tiêu cực của một phương án chính sách khi đó được đi vào thực thi trong cuộc sống.

Để có được kết quả phân tích này, các nhà hoạch định chính sách cần áp dụng những phương pháp cụ thể trong nghiên cứu khoa học như: phương pháp so sánh, phân tích tài liệu, chuyên gia… và vận dụng một cách phù hợp để đưa ra những giải pháp toàn diện nhất.

Thứ tư, truyền thông KH&CN giúp giảm thiểu chi phí về thời gian và tiền bạc cho quá trình hoạch định chủ trương, chính sách.

Cũng nhờ tiếp cận với các nguồn thông tin khoa học, các nhà hoạch định chính sách có thể kế thừa, vận dụng các kiến thức, tri thức khoa học, và cả những kinh nghiệm, mô hình sẵn có thể phục vụ cho công tác lãnh đạo, quản lí. Nhờ đó, “rút ngắn” thời gian và tiết kiệm chi phí cho việc ra quyết sách.

Theo ông, truyền thông KH&CN có thể mở rộng dân chủ, tạo sự đồng thuận trong quá trình hoạch định chủ trương, chính sách phát triển kinh tế- xã hội hay không?

Một trong những mục đích quan trọng của việc nghiên cứu khoa học trong hoạch định chính sách là nhằm tác động vào quá trình ra quyết định chính sách. Vì vậy, các chuyên gia về chính sách cần hỗ trợ để các nhà lãnh đạo, quản lý thực hiện một cách minh bạch và có trách nhiệm trong công việc mà người dân mong đợi ở họ. Nhiệm vụ của họ là thuyết phục những khó khăn nào cần được giải quyết, giải pháp nào cần được lựa chọn và chính sách đề xuất nhằm phục vụ cho lợi ích công nào.

Thứ năm, truyền thông KH&CN giúp các nhà hoạch định chính sách đánh giá khách quan tác động chính sách. Để xây dựng một chính sách tốt, các nhà hoạch định chính sách cũng cần phân tích, dự đoán tác động tích cực và tiêu cực của từng phương án chính sách đối với các đối tượng chịu tác động của chính sách, đồng thời dự báo và so sánh lợi ích, chi phí của các phương án chính sách nhằm cung cấp cơ sở để lựa chọn phương án chính sách tối ưu.

Trên thực tế, để đánh giá tác động của chính sách công, các nhà phân tích có thể sử dụng phương pháp đánh giá định lượng hoặc định tính hoặc kết hợp cả hai phương pháp này. Tuy nhiên, việc sử dụng nhóm phương pháp hoặc phương pháp cụ thể nào phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: mục tiêu, phạm vi tác động của các chính sách; tính tất yếu thông tin thu được; khả năng thu thập dữ liệu… phục vụ cho đánh giá.

Ông có đề xuất hay kiến nghị gì để công tác truyền thông KH&CN giai đoạn tới có thể hiệu quả hơn không?

Công tác truyền thông đã và đang khuyến khích các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là các nhà khoa học lao động sáng tạo hơn nữa để đạt được mục tiêu của lĩnh vực khoa học công nghệ đối với sự phát triển kinh tế- xã hội của đất nước. Do đó, trong bối cảnh công nghiệp 4.0, để truyền thông KH&CN đúng, trúng và đạt hiệu quả, nên chú ý một số nội dung chính như sau:

Khi tiếp cận KH&CN, các phóng viên, nhà báo cần có hiểu biết chuyên sâu về KH&CN để truyền tải các nội dung vốn khô khan trở thành vấn đề dễ hiểu, hấp dẫn với độc giả. Để hoạt động ngày càng hiệu quả hơn, vấn đề quan trọng nhất là con người, do đó, cần tăng cường công tác đào tạo đội ngũ cán bộ truyền thông giỏi cả chuyên môn và giỏi cả nghiệp vụ báo chí. Mặt khác, cần có kinh phí đào tạo nghiệp vụ cho phóng viên về KH&CN, đào tạo về nghiệp vụ truyền thông cho các cán bộ khoa học, thậm chí có cả những khóa đào tạo trong nước và nước ngoài; chú trọng đầu tư cơ sở vật chất cho các cơ sở truyền thông chuyên nghiệp.

Cơ quan quản lý KH&CN cần phối hợp chặt chẽ với các cơ quan thông tấn, báo chí xây dựng những chương trình, hoạt động thu hút sự quan tâm của toàn xã hội. Khi nhận thức về KH&CN của toàn xã hội thay đổi, đặc biệt nhấn mạnh vào vai trò của KH&CN thực sự là một trong những yếu tố quyết định của quá trình phát triển đất nước, nhất là trong bối cảnh cách mạng 4.0 hiện nay.

Các cơ quan báo chí cần chú trọng và tăng cường các hoạt động truyền thông KH&CN trên tất cả các kênh: phát thanh, truyền hình, báo in, báo điện tử, tăng cường mạng lưới websites về thông tin KH&CN. Các Đài phát thanh, truyền hình Trung ương nên có các kênh khoa học hấp dẫn phát sóng liên tục 24h mỗi ngày… nhằm đẩy mạnh truyền thông KH&CN, cần xây dựng các trung tâm truyền thông để các nhà khoa học giao lưu, trao đổi học thuật, tập huấn về công tác truyền thông, chủ động kết nối với truyền thông.

Trong kỷ nguyên 4.0, truyền thông KH&CN trở thành sức mạnh và là một trong những yếu tố quyết định sự phát triển của quốc gia dân tộc cũng như sự tiến bộ xã hội. Khác với trước đây, vai trò của truyền thông KH&CN không chỉ giới hạn ở lĩnh vực giáo dục nâng cao trình độ dân trí mà còn mở rộng ra mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; không chỉ giới hạn ở tầng lớp tinh hoa mà còn thẩm thấu vào mọi giai tầng trong xã hội.

Với nước ta hiện nay, truyền thông KH&CN vừa là nguồn lực, vừa là môi trường, điều kiện để đổi mới kinh tế, đổi mới kỹ thuật và công nghệ; đổi mới sáng tạo; đổi mới cơ chế, thể chế quản trị quốc gia, quản lý phát triển xã hội…

Đặc biệt, thông tin khoa học và công nghệ là cơ sở, căn cứ quan trọng cho việc hoạch định chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo cho các quyết sách phù hợp với quy luật khách quan, với mục tiêu chung của Đảng, Nhà nước và có hiệu lực, hiệu quả trong thực tiễn.

Phong Lâm

Thích và chia sẻ bài viết:

tin liên quan

video hot

Về đầu trang