Đầu tư vào lĩnh vực vũ trụ sẽ làm chủ công nghệ và hội nhập quốc tế thành công

author 06:57 10/02/2016

(VietQ.vn) - 'Đội ngũ nhân lực của chúng ta phát triển tương đối tốt nhưng so với yêu cầu phát triển chưa đáp ứng được, đây là thách thức lớn'.

Bộ trưởng Bộ KH&CN Nguyễn Quân

Bộ trưởng Bộ KH&CN Nguyễn Quân khẳng định: “Nếu chúng ta tiếp tục đầu tư vào Chương trình nghiên cứu ứng dụng công nghệ trong lĩnh vực vũ trụ thì Việt Nam sẽ tiếp tục làm chủ được công nghệ và hội nhập với quốc tế một cách thành công".

- Bộ trưởng có thể đánh giá về sự phát triển công nghệ Vũ trụ của Việt Nam hiện nay?

Công nghệ vũ trụ là một vấn đề rất mới ở Việt Nam. Những người làm khoa học và công nghệ (KH&CN) mới tiếp cận những công nghệ tiên tiến trong lĩnh vực này khoảng 15 năm trở lại đây nhưng đã có tốc độ tăng trưởng tương đối tốt từ sau khi Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển Công nghệ Vũ trụ (CNVT) đến năm 2020.

Qua 5 năm tổ chức việc thực hiện chiến lược, với sự ra đời của Ủy ban Vũ trụ Việt Nam, sự phối hợp giữa các Bộ, ngành, đặc biệt là chương trình Quốc gia nghiên cứu về công nghệ vũ trụ, có thể nói 1 số các viện nghiên cứu, trường đại học đã nhanh chóng tiếp cận được với công nghệ mới, có được kết quả đáng mừng như: 2 vệ tinh thông tin Vinasat-1, Vinasat-2 và vệ tinh viễn thám VNREDSat-1 đang hoạt động theo đầy đủ thông số kỹ thuật; Dự án xây dựng Trung tâm Vũ trụ Việt Nam đang được gấp rút thực hiện.

Bên cạnh những dự án trên, Việt Nam rất chú trọng đến vấn đề pháp luật liên quan đến CNVT với việc đẩy mạnh tham gia các Công ước, Điều ước quốc tế về CNVT và hoàn thiện khung pháp lý tạo điều kiện hỗ trợ, phát triển nguồn nhân lực, phát triển ứng dụng công nghệ phục vụ phát triển kinh tế-xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh và hội nhập quốc tế.

Bộ trưởng có thể nói rõ hơn về mức độ ứng dụng của tên lửa, vệ tinh và các hệ thống dẫn đường ở Việt Nam hiện nay?

Hiện nay, về vệ tinh chúng ta đang nghiên cứu làm chủ công nghệ thiết kế. Chúng ta đã thiết kế thành công vệ tinh siêu nhỏ và tiến tới là vệ tinh nhỏ, đồng thời làm chủ công nghệ điều khiển trạm mặt đất đối với những vệ tinh viễn thông, viễn thám đã đưa lên quỹ đạo với các Hợp đồng của các tổ chức nước ngoài.

Có thể nói các nhà khoa học Việt Nam và Trung tâm vệ tinh quốc gia và các trạm mặt đất đã nhanh chóng làm chủ được công nghệ phân tích ảnh vệ tinh phục vụ cho các lĩnh vực kinh tế, xã hội như dự báo thiên tai, đánh giá tài nguyên thiên nhiên, khẳng định chủ quyền của biển đảo cũng như biên giới của Việt Nam, xác định những thông số phát triển kinh tế xã hội như là độ che phủ rừng, tốc độ đô thị hóa, mức độ xâm lấn của nước biển và ngập mặn xói lở các bờ biển của phía Nam Việt Nam.

Trong lĩnh vực định vị vệ tinh, đã tham gia vào định vị các mạng lưới vệ tinh toàn cầu như GPS ở Việt Nam đã tương đối phổ biến. Đặc biệt, trong mấy năm vừa rồi chúng ta hợp tác với một số tổ chức lớn của quốc tế như Liên Bang Nga, Galileo của Cộng đồng Châu Âu…, những kết quả nghiên cứu của dự án này đã có kết quả tốt. Vừa rồi trong Lễ trao giải Nhân tài đất việt, nhóm nghiên cứu của đại học Bách Khoa Hà Nội cộng tác với Galileo của Châu Âu đã giành được giải thưởng cao với một nghiên cứu về định vị và dẫn đường bằng vệ tinh.

Tôi cho rằng nếu chúng ta tiếp tục đầu tư vào Chương trình nghiên cứu ứng dụng công nghệ trong lĩnh vực vũ trụ thì chúng ta sẽ tiếp tục làm chủ được công nghệ và hội nhập với quốc tế một cách thành công.

- Xin Bộ trưởng cho biết tiềm năng phát triển của các công nghệ cao trong phạm vi công nghệ vũ trụ?

Có thể nói bản thân công nghệ vũ trụ cũng là một công nghệ cao, chúng ta phát triển công nghệ cao không thể không quan tâm tới lĩnh vực này. Thứ nhất, tiềm năng chúng ta lớn vì đội ngũ nhà khoa học Việt Nam được đào tạo và quan tâm tới công nghệ vũ trụ cũng đông đảo. Thứ hai, nó có tác dụng trực tiếp đến đời sống kinh tế xã hội của người dân.

Công nghệ ứng dụng GPS trong dẫn đường hoặc là công nghệ phân tích ảnh vệ tinh để dự báo thiên tai, lũ lụt hoặc là biến đổi khí hậu rất thiết thực đối với nền kinh tế của chúng ta. Chúng ta cũng có được sự quan tâm của cộng đồng quốc tế, đặc biệt là những nước công nghiệp hàng đầu thế giới cũng đã hỗ trợ với mong muốn chúng ta hợp tác với họ nghiên cứu không chỉ cho Việt Nam mà nghiên cứu phục vụ toàn cầu.

Chính phủ rất quan tâm cho nên ngoài chiến lược phát triển công nghệ vụ trụ đến năm 2020 cũng đã thành lập chương trình KH&CN nghiên cứu về vũ trụ, giao cho các nhà khoa học hàng đầu nghiên cứu và đảm nhiệm ứng dụng công nghệ vũ trụ.

Tất nhiên là nguồn lực đầu tư cho chương trình còn hạn chế. Trong những năm tới, nếu chúng ta đạt được kết quả thì sẽ có sự đầu tư lớn hơn từ Chính phủ. Ngoài việc đầu tư phóng các vệ tinh viễn thông, viễn thám, ngoài việc đầu tư cho việc mua thiết kế làm chủ, thiết kế vệ tinh nhỏ, đầu tư cho hạ tầng công nghệ vũ trụ ở Việt Nam thì chúng ta rất kỳ vọng vào một dự án rất lớn là Trung tâm Vũ trụ Quốc gia đặt tại Hòa Lạc với nguồn vốn đầu tư ODA của Nhật Bản hơn 600 triệu đô-la.  Với dự án KH&CN trọng điểm lớn nhất từ trước đến nay này, chúng ta sẽ có được một nền tảng đội ngũ cán bộ công nghệ về công nghệ vũ trụ đáp ứng được yêu cầu của đất nước.

Ngoài ra, hiện nay chúng ta đang nghiên cứu gia nhập 5 Hiệp ước Quốc tế về khoảng không vũ trụ. Ngoài việc chúng ta đã ký các Hiệp định này với Hoa kỳ và Liên Bang Nga thì việc gia nhập 5 Hiệp ước vũ trụ Quốc tế sẽ tạo điều kiện cho các nhà khoa học Việt Nam có thể tham gia vào các chương trình quốc tế về nghiên cứu vũ trụ, cũng như có thể tận dụng được hỗ trợ của thế giới thông qua các hợp tác nghiên cứu về vũ trụ và huy động được nguồn kinh phí tài trợ từ các tổ chức quốc tế, quốc gia khác. Như vậy, tiềm lực về công nghệ vũ trụ của Việt Nam sẽ được tăng lên.

Được biết thách thức lớn nhất trong lĩnh vực công nghệ vũ trụ ở Việt Nam hiện nay là làm sao có được đội ngũ nhân lực cao? Bộ trưởng có thể nói rõ hơn về vấn đề này?

Hiện nay đội ngũ nhân lực của chúng ta phát triển tương đối tốt nhưng so với yêu cầu phát triển chưa đáp ứng được, đây là thách thức lớn.

Khó khăn lớn nhất của người làm trong lĩnh vực này đòi hỏi được đào tạo rất bài bản, phải có 1 trí tuệ cao hơn những lĩnh vực khác, đồng thời phải có năng lực về hội nhập quốc tế để tiếp cận lĩnh vực này. Tuy nhiên chúng ta chưa hội nhập quốc tế một cách đầy đủ và sâu rộng.

Thách thức thứ 2 là chế độ đãi ngộ với những người làm trong lĩnh vực này hiện nay chưa có gì khác so với mặt bằng chung của cán bộ, công nhân, viên chức, vì thế rất khó thu hút những người giỏi vào làm việc.

Trong thời gian sắp tới, việc mở các chuyên ngành đào tạo về công nghệ vũ trụ ở các trường đại học cũng là một thách thức vì đội ngũ giảng viên còn chưa đáp ứng được yêu cầu.

Chắc chắn chúng ta sẽ phải mời các nhà khoa học quốc tế, các giáo sư từ các quốc gia phát triển về công nghệ vũ trụ tham gia vào công việc đào tạo ở Việt Nam, đồng thời thông qua các đề tài dự án nghiên cứu khoa học đào tạo một số cán bộ ở trình độ trên đại học và sau đại học để phục vụ cho chương trình này.

Hi vọng với tất cả những giải pháp đó, chúng ta sẽ có được kết quả tốt hơn trong tương lai.

Xin cảm ơn Bộ trưởng!

Minh Hà


Thích và chia sẻ bài viết:

tin liên quan

video hot

Về đầu trang