Công nghiệp hỗ trợ: Thiếu nền tảng, phát triển thế nào?

authorMinh Hà 16:43 08/06/2015

(VietQ.vn) - Nước ta vẫn đang loay hoay tìm hướng đi phù hợp cho công nghiệp hỗ trợ (CNHT), trong khi đó nhu cầu lại rất lớn.

Nhiều hạn chế rõ nét

Câu chuyện về việc chưa thể làm được cái ốc vít mà lâu nay các doanh nghiệp FDI “đòi hỏi” là hồi chuông báo động cho việc phát triển CNHT ở Việt Nam. Chưa xét tới việc nước ta có làm được cái ốc vít hay không làm được nhưng khi doanh nghiệp nước ngoài đưa ra ý kiến như vậy là điều cần phải suy nghĩ thận trọng.

Không thiếu các cơ chế, chính sách của Nhà nước cho doanh nghiệp phát triển CNHT nhưng chính sách đó ra sao, đã đúng hướng hay chưa đúng hướng, doanh nghiệp đã biết tận dụng chính sách để phát triển… là điều còn nhiều trăn trở.

CNHT ở Việt Nam mới chỉ ở giai đoạn phát triển sơ khai, còn manh mún, kém phát triển, chưa đáp ứng được nhu cầu của các ngành công nghiệp chế tạo, lắp ráp. Các DN sản xuất các sản phẩm hỗ trợ ở nước ta còn rất ít, công nghệ lạc hậu, khả năng cạnh tranh yếu kém; các sản phẩm hỗ trợ của nước ta còn nghèo nàn về chủng loại, kiểu dáng, mẫu mã đơn điệu, giá lại cao hơn nhiều sản phẩm cùng loại nhập khẩu; nhân lực phục vụ công nghiệp hỗ trợ chưa đáp ứng được cả về số lượng và chất lượng…

Nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước trong phát triển CNHT như: Hàn Quốc, Trung Quốc, Thái Lan cho ta thấy những vấn đề mà Việt Nam cần học hỏi để phát triển CNHT như: xây dựng mối liên kết chặt chẽ và thông suốt giữa các DN tham gia vào CNHT và công nghiệp lắp ráp, chế tạo; xác định doanh nghiệp hạt nhân; nâng tầm DN sản xuất CNHT là các nhà thầu phụ…

Theo số liệu của Viện chiến lược Công nghiệp (Bộ Công Thương), khoảng 500 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực chế tạo thì chỉ có 200 doanh nghiệp trong nước đủ trình độ tham gia sản xuất cho nước ngoài nhưng mới tập trung vào chủ yếu vào lĩnh vực xe máy và điện tử, nhiều sản phẩm không đạt được mục tiêu đề ra. Công nghiệp ô tô đặt mục tiêu 2010 - 2020 nội địa hóa 60% nhưng mới chỉ đạt 7%-8%.

Theo TS. Phạm Thị Thu Hằng, Tổng Thư ký Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam: Từ nền kinh tế hàng hóa chuyển sang nền kinh tế thị trường, Việt Nam chưa xây dựng được một hệ thống các nhà cung cấp chuyên nghiệp nguyên liệu, cụm linh kiện và phụ tùng. Sự phát triển CNHT còn mang tính tự phát. Trình độ công nghệ của DN CNHT Việt Nam so với DN CNHT cùng khu vực ASEAN còn có khoảng cách lớn. Nói cách khác, các nhà cung cấp - DN nhỏ và vừa trong nước thiếu năng lực cung ứng đúng số lượng và chất lượng cần thiết cho các khách hàng mua lớn, các nhà lắp ráp lớn.

Nước ta vẫn đang loay hoay tìm hướng đi phù hợp cho công nghiệp hỗ trợ

Nước ta vẫn đang loay hoay tìm hướng đi phù hợp cho công nghiệp hỗ trợ. Ảnh minh họa

Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, là do Việt Nam tập trung nhiều vào gia tăng số lượng DN mới nên bỏ lỡ cơ hội tăng cường năng lực, quy mô cho các DN đang hoạt động. Chỉ có khoảng 2% DN có quy mô vừa, 2% DN có quy mô lớn. DN trong nước gặp khó khăn trong việc di chuyển lên chuỗi giá trị cho nên đã tạo ra hai tầng DN hoạt động tách biệt DN trong nước và DN FDI.

Giáo sư TSKH Nguyễn Mại, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp Đầu tư nước ngoài cho rằng, hiện nay, Việt Nam chưa có chiến lược đầu tư ưu tiên phát triển một vài loại CNHT quốc gia để tạo ra sản lượng quy mô lớn. Trong thập niên 90 của thế kỷ trước Malaysia đã tập trung phát triển điện và điện tử để phục vụ sản xuất trong nước và tạo ra mặt hàng xuất khẩu chủ lực trên thị trường thế giới, năm 2000 chiếm 57% kim ngạch xuất khẩu của nước này. Thái Lan khuyến khích FDI vào ngành công nghiệp ô tô, đã thu hút được 17 hãng sản xuất ô tô lớn của thế giới, năm 2012 đạt sản lượng 2,45 triệu chiếc, khoáng ½ để xuất khẩu; 635 nhà cung ứng cấp 1 (chiếm 65%) là doanh nghiệp Thái Lan hoặc liên doanh với nước ngoài với cổ phần chi phối là của người Thái; khoảng 1700 nhà cung ứng cấp 2 là người Thái.

Hướng đi thế nào?

Ông Đặng Đình Thịnh, đại diện Công ty CP sản xuất phụ tùng ô tô và thiết bị công nghiệp JAT cho biết, công ty này sản xuất linh kiện phụ tùng xe máy cho các đối tác chính là Honda (từ năm 2011), Piaggio, Yamaha (năm 2014)… Qua quá trình làm việc với các DN sản xuất nước ngoài nhận thấy, họ thường yêu cầu đầu vào nguyên liệu rất cao theo các quy chuẩn của họ. Trong khi đa số các DN Việt Nam là DN vừa và nhỏ, để sản xuất được những linh kiện đầu vào đó yêu cầu máy móc phải rất tối tân. Các công ty như Samsung, Honda… họ chỉ nhìn vào thực tế của chúng ta để “đặt hàng”, tức là có máy móc trước sẽ ký hợp đồng. Nhưng người Việt Nam, chỉ khi ký hợp đồng chắc chắn thì mới đầu tư công nghệ.

Giáo sư TSKH Nguyễn Mại cho rằng, nước ta có thể đồng thời phát triển CNHT theo hai hướng chính: thứ nhất là sản xuất phụ tùng, linh kiện cho sản phẩm công nghệ cao như của Intel, Samsung, Canon, công nghiệp ô tô, xe máy…. Hướng phát triển này đòi hỏi đầu tư trang thiết bị công nghệ và nguồn nhân lực được đào tạo có kỹ năng đáp ứng đòi hỏi của từng loại sản phẩm. Thứ hai là CNHT ngành may mặc, da giày, công nghiệp chế tạo khác không đòi hỏi cao về công nghệ và kỹ năng lao động nhưng tạo ra hàng triệu việc làm với thu nhập ngày càng tăng. Chiến lược phát triển CNHT quốc gia, của mỗi vùng và từng địa phương phải được hoạch định phù hợp với định hướng chính. 

Theo Thứ trưởng Bộ KH&CN Phạm Công Tạc, chúng ta nên học hỏi các nước đi trước. Họ xuất khẩu những gì? Đó là những thứ tinh hoa nhất mà họ đã từng sản xuất hàng trăm năm, như máy bay, xe tăng, ô tô,.. . Vậy các nước đang phát triển như Việt Nam thì xuất gì? Đó là dầu mỏ, khoáng sản, ti tan, than, lao động phổ thông, nông lâm thủy sản, cá tra, cá basa, tiêu, gạo,… vẫn chỉ là sản phẩm thô. Như vậy, công nghiệp hỗ trợ của chúng ta cũng chỉ là thô. Điều đó cho thấy ngành CNHT của Việt Nam cũng không thể một chốc một lát để phát triển ngay được, chúng ta chưa có điểm trụ để làm nền tảng thì chưa thể nói rằng làm cách nào để đưa ngành CNHT sớm phát triển.

Mỗi DN muốn phát triển lâu dài và bền vững, trước tiên hãy có sự đầu tư về nghiên cứu, đổi mới công nghệ. Đồng thời, các DN trong nước nên có sự liên kết hợp tác với nhau để sản xuất linh kiện, làm tăng tỷ lệ nội địa hóa và mang lại lợi nhuận cho quốc gia.

Phát triển công nghiệp phụ trợ nói riêng cần được xác định là chiến lược quốc gia chứ không phải việc đơn lẻ của các doanh nghiệp. Nếu không xác định như vậy, ngành công nghiệp phụ trợ vẫn không thể cất cánh. Chỉ khi trở thành chiến lược quốc gia, các quyết sách của nhà nước mới đủ sức mạnh vực dậy ngành cơ khí đang rất khó khăn.

Thích và chia sẻ bài viết:

tin liên quan

video hot

Về đầu trang